Thiên Chúa tỏ mình ra trong những việc đơn sơ nhất
Lc 1:39-45
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc thăm viếng của Đức Maria với người chị họ Isave. Họ biết nhau. Các bà có liên hệ họ hàng. Tuy nhiên, trong cuộc gặp gỡ, họ khám phá ra trong người kia có một mầu nhiệm mà họ chưa biết và đổ đầy họ với niềm vui lớn lao. Chúng ta có thường gặp được những người mà chúng ta quen biết, nhưng làm chúng ta ngạc nhiên vì sự khôn ngoan và sự chứng tá cho đức tin của họ không? Chính vì Thiên Chúa đã tỏ mình ra và để cho chúng ta hiểu biết mầu nhiệm sự hiện diện của Người trong đời sống chúng ta.
Văn bản của bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng tuần này không bao gồm bài ca vịnh của Đức Maria (Lc 1:39-45) và mô tả sơ qua chuyến thăm viếng bà Isave của Đức Maria (Lc 1:39-45). Trong phần bình luận ngắn gọn này, chúng tôi mạn phép bao gồm cả bài ca vịnh của Đức Maria bởi vì nó giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về ý nghĩa trải nghiệm của hai người phụ nữ trong giây phút của cuộc viếng thăm này. Bài ca vịnh cho thấy những gì Đức Maria đã trải qua khi bà Isave chào đón Đức Mẹ đã giúp Mẹ cảm nhận được sự hiện diện của mầu nhiệm Thiên Chúa không chỉ ở trong con người của bà Isave, mà cũng còn ở trong chính đời sống Đức Mẹ và trong lịch sử dân tộc của bà.
Khi bạn đọc bài Tin Mừng, bạn hãy cố gắng chú ý điều sau đây: “Những cử chỉ gì, lời nói gì và sự so sánh nào được thực hiện bởi Đức Maria và bà Isave để bày tỏ việc khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của họ?
b) Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 1:39-40: Đức Maria rời nhà để đi thăm người chị họ Isave
Lc 1:41: Khi bà Isave nghe thấy lời chào của Đức Maria, bà trải nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa
Lc 1:42-44: Bà Isave chào đón Đức Maria
Lc 1:45: Bà Isave ca ngợi Đức Maria
Lc 1:46-56: Bài ca Ngợi Khen (Magnificat), bài ca vịnh của Đức Maria
c) Tin Mừng:
39 Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. 40 Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave. 41 Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần. 42 Bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. 45 Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện.”
46 Bấy giờ bà Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
50 Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người,
55 – như đã hứa cùng cha ông chúng ta – vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.”
56 Bà Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng, rồi trở về nhà.
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.
a) Điều gì trong bài Tin Mừng này đã làm bạn hài lòng nhất hoặc đánh động bạn nhất? Tại sao?
b) Những cử chỉ, lời nói và sự so sánh nào bày tỏ việc khám phá của bà Isave về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời bà và trong Đức Maria?
c) Với những cử chỉ, lời nói và sự so sánh nào mà Đức Maria bày tỏ việc khám phá của mình về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời Mẹ, trong đời bà Isave và lịch sử dân tộc của Mẹ?
d) Lý do cho sự vui mừng của cả hai người phụ nữ là gì?
e) Biểu tượng gì của Cựu Ước được nhớ lại và được thực hiện trong việc mô tả chuyến viếng thăm này?
f) Niềm vui sự hiện diện của Thiên Chúa xảy ra ở đâu và bằng cách nào trong đời tôi, trong gia đình tôi và trong cộng đoàn tôi?
5. Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
a) Bối cảnh ngày xưa và ngày nay:
Trong Tin Mừng Mátthêu, thời thơ ấu của Chúa Giêsu được tập trung vào hình ảnh thánh Giuse, cha nuôi của Chúa Giêsu. Qua “thánh Giuse, chồng của Đức Maria” (Mt 1:16), Chúa Giêsu trở thành hậu duệ của vua Đavít, có thể làm hoàn thành lời đã được hứa với vua Đavít. Mặt khác, theo Tin Mừng Luca, thời thơ ấu của Chúa Giêsu được tập trung vào con người của Đức Maria, “người đã đính hôn với Giuse” (Lc 1:27). Luca không nói nhiều về Đức Maria, nhưng những gì ông nói thì rất sâu sắc và quan trọng. Ông giới thiệu Đức Maria như là một mẫu mực đời sống cho các cộng đoàn Kitô hữu. Chìa khóa để nhìn thấy Đức Maria trong phương diện này là những gì Chúa Giêsu nói với mẹ Người: “Phúc thay cho những kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28). Trong phương cách mà Đức Maria liên kết với Lời Thiên Chúa, Luca coi đó là phương cách tốt nhất cho các cộng đoàn liên kết với Lời Thiên Chúa; lắng nghe, nhập tâm, đào sâu, suy gẫm, tái sinh và phát huy, cho phép mình được tràn ngập bởi lời ấy ngay cả khi người ta không hiểu nó hoặc khi nó mang lại đau khổ. Đây là bối cảnh cho chương thứ nhất và thứ hai của sách Tin Mừng Luca khi nói về Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu. Khi Luca nói về Đức Maria, ông đã nghĩ đến các cộng đoàn Kitô hữu vào thời ấy đã sống rải rác trong các thành phố của đế chế La Mã. Đức Maria là mẫu mực cho cộng đoàn tín hữu. Và, trung thành với truyền thống Kinh Thánh này, chương cuối cùng của “Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội” (Lumen Gentium) của Cộng Đồng Vatican II nói về Giáo Hội, trình bày Đức Maria như mẫu mực của Giáo Hội.
Chuyến viếng thăm bà Isave của Đức Maria cho thấy một khía cạnh điển hình khác của Luca. Tất cả những lời nói, cử chỉ và hơn hết cả là bài ca vịnh của Đức Maria là một lễ cử hành trang trọng về sự ca ngợi. Nó giống như lời mô tả của một nghi thức phụng vụ long trọng.
Bằng cách này, Luca tạo ra một bầu không khí đôi: bầu không khí cầu nguyện mà trong đó Chúa Giêsu được sinh ra và lớn lên tại vùng đất Paléstin, và bầu không khí phụng vụ và nghi thức cử hành nội bộ mà các cộng đoàn Kitô hữu sống đức tin của họ. Ông giảng dạy việc biến đổi chuyến thăm viếng của Thiên Chúa trở thành sự phục vụ anh chị em.
b) Lời bình luận về văn bản:
Lc 1:39-40: Đức Maria đi viếng bà Isave
Luca nhấn mạnh đến việc vội vàng ra đi của Đức Maria trong việc đáp lại sự đòi hỏi của Lời Chúa. Thiên sứ báo tin cho Đức Mẹ rằng bà Isave đang mang thai, và ngay lập tức, Đức Maria bắt đầu cuộc hành trình của mình để xem thấy những gì thiên sứ đã nói với bà. Đức Mẹ rời nhà đến giúp đỡ một người đang cần sự giúp đỡ. Chặng đường từ Nagiarét lên đến miền núi vùng Giuđêa dài hơn 100 cây số. Lúc ấy không có xe chở khách, không có xe lửa. Đức Maria nghe Lời Chúa và thực hành lời ấy theo phương cách hiệu quả nhất.
Lc 1:41-44: Lời chào của bà Isave
Bà Isave đại diện cho Cựu Ước, sắp đến lúc kết thúc; Đức Maria đại diện cho Tân Ước, sắp sửa bắt đầu. Cựu Ước chào đón Tân Ước với lòng biết ơn và sự tự tin, nhận ra được món quà cho không của Thiên Chúa, được trao ban để thực hiện và đáp ứng lòng mong đợi của dân chúng. Trong buổi gặp gỡ của hai người phụ nữ, món quà của Chúa Thánh Thần tự biểu hiện và khiến cho hài nhi trong bụng bà Isave vui mừng.
Tin Mừng của Thiên Chúa mặc khải sự hiện diện của Người trong những sự kiện tự nhiên phổ biến nhất, hai bà nội trợ thăm viếng nhau để giúp đỡ lẫn nhau. Thăm viếng, niềm vui, thai nghén, con cái, giúp đỡ lẫn nhau, nhà cửa, gia đình: Luca muốn các cộng đoàn (và chúng ta) nhìn thấy và khám phá ra sự hiện diện của Nước Trời trong những điều này.
Cho đến ngày nay, những lời của bà Isave vẫn là một phần của bài Thánh Vịnh nổi tiếng nhất và được đọc nhiều nhất trên toàn thế giới, kinh Kính Mừng.
Lc 1:45: Bà Isave ca ngợi Đức Maria
“Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện”. Đây là sứ điệp của Luca gửi đến các cộng đoàn: niềm tin vào Lời Chúa có sức mạnh để mang lại những gì lời ấy nói. Chính Lời Chúa là lời tạo dựng. Nó sinh ra sự sống mới trong cung lòng của một trinh nữ, trong cung lòng của những người nghèo khó và bị hắt hủi đã đón nhận với đức tin. Lời bà Isave ca ngợi Đức Maria được hoàn thành khi Chúa Giêsu ca ngợi mẹ mình: “Phúc thay cho những ai lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11:28).
Lc 1:46-56: Bài ca vịnh của Đức Maria
Có lẽ là bài ca vịnh này đã được biết đến và được hát lên bởi các cộng đoàn Kitô hữu. Nó dạy cho người ta phải cầu nguyện và hát như thế nào. Nó cũng là một loại mẫu mực cho thấy mức độ hiểu biết của các cộng đoàn ở Hy Lạp mà Luca đã viết sách Tin Mừng cho họ. Cho đến ngày nay, có thể đánh giá mức độ nhận thức của các cộng đoàn từ những bài thánh ca mà chúng ta nghe thấy và hát ở đó.
Lc 1:46-50:
Đức Maria bắt đầu bằng cách công bố sự thay đổi đã xảy ra trong đời mình dưới ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa là Đấng đầy lòng thương xót nhất. Vì vậy, Đức Mẹ đã hát lên một cách vui vẻ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.” Để hiểu được ý nghĩa của những ca từ rất nổi tiếng này, chúng ta cần nhớ rằng đây là một thiếu nữ rất trẻ, có lẽ 15 hay 16 tuổi, nhà nghèo, sống trong một ngôi làng xa xôi hẻo lánh tại đất Paléstin, miền biên giới, nhưng lại là người hiểu biết rõ ràng tình huống và sứ vụ của mình và của cả dân tộc mình. Đức Maria bắt chước bài ca vịnh của bà Anna, mẹ của tiên tri Samuen (1Sm 2:1-10).
Lc 1:51-53:
Sau đó, Đức Maria ca tụng sự trung tín của Đức Chúa Trời đối với dân của Người và công bố sự thay đổi bằng sức mạnh của cánh tay Thiên Chúa được tác thành thiên về những người nghèo đói. Thành ngữ “cánh tay của Thiên Chúa” gợi nhớ lại sự giải thoát trong sách Xuất Hành. Sự thay đổi này diễn ra bởi ân sủng quyền năng cứu độ của Đức Chúa Trời: Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng (1:51); Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường (1:52); kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng (1:53). Ở đây, chúng ta thấy mức độ nhận thức về người nghèo vào thời Chúa Giêsu và thời các giáo đoàn của Luca đã hát bài ca vịnh này và có lẽ đã thuộc nó nằm lòng. Rất nên so sánh bài ca vịnh này với các bài thánh ca mà các cộng đoàn hát trong nhà thờ ngày nay. Chúng ta có nhận thức về chính trị và xã hội mà chúng ta tìm thấy trong bài ca vịnh của Đức Maria không? Trong những năm 1970, vào thời kỳ các chế độ độc tài quân phiệt cầm quyền tại châu Mỹ Latinh, trong dịp cử hành lễ Phục Sinh, bài ca vịnh này đã bị nhóm quân phiệt kiểm duyệt bởi vì nó bị xem như mang tính chất phá hoại. Cho đến ngày nay, nhận thức của Đức Maria, thân mẫu của Chúa Giêsu, vẫn còn là một điều bực bội lo lắng cho thế gian!
Lc 1:54-55:
Cuối cùng, bài ca vịnh nhắc nhớ chúng ta rằng tất cả những điều này là một biểu hiện của lòng thương xót Thiên Chúa đối với dân của Người và lòng trung thành của Người với lời hứa đã lập với Ápraham. Tin Mừng không chỉ là một phần thưởng dành cho những người tuân giữ Lề Luật Môisen, mà cũng là một biểu hiện của sự tốt lành và lòng trung thành của Thiên Chúa với lời hứa của Người. Đây là những gì thánh Phaolô giảng dạy trong những bức thư gửi cho các tín hữu ở Galát và ở Rôma.
c) Phần phụ chú:
Tin Mừng Luca chương 1 và 2: Kết thúc của thời Cựu Ước và bắt đầu của thời Tân Ước
Trong hai chương đầu tiên của sách Tin Mừng Luca, tất cả mọi việc xoay quanh sự ra đời của hai người: Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu. Hai chương này cung cấp cho chúng ta hương vị thú vị của Tin Mừng Luca. Bầu không khí trong những chương ấy là lời ca ngợi và sự dịu dàng. Từ đầu chí cuối, lòng thương xót của Thiên Chúa được ca ngợi và chúc tụng, lòng thương xót mà cuối cùng xảy ra để thực hiện những lời hứa của mình. Những lời hứa này được hoàn thành trong sự chiếu cố người nghèo khó, kẻ cùng khốn (anawim), những người biết cách chờ đợi cho lời ứng nghiệm của họ: bà Isave, ông Giacaria, Đức Maria, thánh Giuse, ông Simon, bà Anna, các mục đồng và ba vị đạo sĩ.
Hai chương đầu tiên của sách Tin Mừng Luca được nổi tiếng nhưng chỉ là bề ngoài. Luca đã viết bắt chước theo Kinh Thánh Cựu Ước. Dường như hai chương đầu sách Tin Mừng của ông là đoạn cuối cùng của Cựu Ước, do đó mở đường cho sự xuất hiện của Tân Ước. Hai chương này là ngưỡng cửa giữa Cựu Ước và Tân Ước. Luca muốn cho Thêôphilô thấy rằng những lời tiên tri đang được thực hiện. Đức Giêsu hoàn thành Cựu Ước và bắt đầu Tân Ước.
Hai chương này của Tin Mừng Luca không phải là lịch sử trong sự hiểu biết về lịch sử của chúng ta ngày nay. Chúng được dùng như là một tấm gương soi cho những người mà sách Tin Mừng được viết, các Kitô hữu dân ngoại mới theo đạo, khám phá ra rằng Đức Giêsu đến để làm viên mãn các lời tiên tri của Cựu Ước và để đáp ứng những khát vọng sâu xa nhất của tâm hồn con người. Chúng cũng tượng trưng cho những gì đang xảy ra trong các giáo đoàn của họ vào thời Luca. Các cộng đoàn bắt nguồn từ những người ngoại giáo sẽ được khai sinh từ những người Do Thái cải đạo. Nhưng họ sẽ khác nhau. Tân Ước không hoàn toàn tương ứng với những gì Cựu Ước đã hình dung và hy vọng. Đó là một “dấu hiệu của sự mâu thuẫn” (Lc 2:34), đã tạo ra căng thẳng và là lý do của nỗi đau khổ. Trong thái độ của Đức Maria, Luca trình bày một mô hình về cách để phản ứng và kiên trì trong Tân Ước.
6. Cầu Nguyện với Thánh Vịnh 27 (26)
Chúa là ánh sáng của tôi, tôi còn sợ chi ai?
CHÚA là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn sợ người nào?
CHÚA là thành lũy bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa?
Khi ác nhân xông vào, định nuốt sống thân tôi,
ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy,
lại lảo đảo té nhào.
Dù cả một đạo quân vây đánh, lòng tôi chẳng sợ gì.
Dù có phải lâm vào chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin.
Một điều tôi kiếm tôi xin,
là luôn được ở trong đền CHÚA tôi
mọi ngày trong suốt cuộc đời,
để chiêm ngưỡng CHÚA tuyệt vời cao sang,
ngắm xem thánh điện huy hoàng.
Ngày tôi gặp tai ương hoạn nạn,
Người che chở tôi trong lều thánh,
đem giấu tôi thật kín trong nhà,
đặt an toàn trên tảng đá cao.
Nên giờ đây tôi ngẩng đầu đắc ý,
nhìn quân thù vây bủa chung quanh.
Tôi sẽ dâng lễ tế trong thánh điện,
lễ tạ ơn, nhã nhạc vang lừng,
tôi sẽ đàn ca mừng kính CHÚA.
Lạy CHÚA, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu,
xin thương tình đáp lại!
Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan.
Lạy CHÚA, con tìm thánh nhan Ngài,
xin Ngài đừng ẩn mặt.
Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy,
chính Ngài là Đấng phù trợ con.
Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi,
lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con.
Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa,
thì hãy còn có CHÚA đón nhận con.
Xin dạy con đường nẻo Ngài, lạy CHÚA,
dẫn con đi trên lối phẳng phiu,
vì có những người đang rình rập.
Xin đừng phó mặc con cho kẻ thù hung hãn,
vì lũ chứng gian đứng dậy tố con,
giương bộ mặt hằm hằm sát khí.
Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc CHÚA ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.
Hãy cậy trông vào CHÚA, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!
Hãy cậy trông vào CHÚA.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.