Thánh Maria Magdalene de’ Pazzi tên thật là Catarina dè Pazzi sinh ngày 2 tháng 4 năm 1566 mất ngày 25 tháng 5 năm 1607 là một nữ tu dòng kín Cát Minh.
Thánh nhân sinh ra trong một gia đình quyền quý ở Florence của nước Ý. Vào thế kỷ 15, dòng họ Pazzi đã nắm giữ một quyền lực chính trị to lớn, Thánh nhân được giáo dục tốt từ nhỏ và được biết đã cảm nhận sâu sắc sự tồn tại của Chúa. Thực ra với địa vị và gia cảnh của mình, Thánh nhân có thể lấy một người chồng và an hưởng cuộc đời nhàn hạ nhưng cô đã chọn con đường dâng hiến cho Thiên Chúa.
Ngay từ nhỏ, Ngài đã ham thích cầu nguyện và làm việc lành. Muốn cho Ngài vui thích, cứ việc đọc cho Ngài nghe truyện các thánh hay là dẫn Ngài tới nhà thờ.
Lên 7 tuổi lòng thương người của Ngài đã tiến xa tới độ nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo. Có dịp về miền quê, niềm vui chính của Ngài là tập họp trẻ em lại để dạy giáo lý cho chúng. Một lần kia, khi mới bắt đầu dạy đạo cho một em bé con một nông dân, thì Ngài phải báo cho biết là phải trở về Florence. Ngài đã buồn rầu đến độ không cầm được nước mắt, Cha Ngài chỉ có thể an ủi Ngài bằng cách dẫn em bé ấy về để dạy cho xong.
Ngay từ khi chín tuổi, Thánh nhân đã tập suy niệm qua sự chỉ bảo của cha giải tội cho gia đình. Lúc 10 tuổi Thánh nhân được rước lễ lần đầu và một tháng sau đó thề giữ mình đồng trinh.
Năm 13 tuổi Ngài còn tự ý làm một mão gai để đội đầu mỗi khi đi ngủ để cảm thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.
Đến 16 tuổi, Catarina đã ao ước được gia nhập dòng kín Cát Minh. Sau một thời gian luỡng lự, cuối cùng cha mẹ Ngài đã chấp nhận, Catarina vào dòng ngày 14 tháng 8 năm 1582 và ngay 30 tháng giêng năm 1583, được mặc áo dòng với danh hiệu Maria Madalena.
Thánh nhân lâm bệnh nặng. Tưởng ngài sắp chết, mẹ bề trên cho ngài khấn trọn khi còn nằm trên giường bệnh trong một nghi thức đặc biệt. Nhưng ngay sau đó, ngài rơi vào trạng thái ngây ngất (xuất thần) và kéo dài khoảng hai giờ đồng hồ. Trong vòng 40 ngày kế tiếp, trạng thái này liên tục xảy ra sau mỗi lần rước Mình Thánh Chúa. Những lần ngây ngất này đầy dẫy những cảm nghiệm hợp nhất với Thiên Chúa và chứa đựng những hiểu biết lạ lùng về chân lý của Thiên Chúa.
Có nữ tu hỏi thánh nữ xem bí mật nào đã giúp Ngài nhẫn nại chịu đựng như vậy, chỉ vào cây thánh giá Ngài trả lời: – Hãy xem điều Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc tôi. Những ai nhớ tới những đau khổ của Chúa Giêsu và dâng những đau khổ của mình lên Thiên Chúa, họ chỉ còn thấy êm ái đối với những gì mình phải chịu mà thôi.
Ðể khỏi bị lừa gạt và để giữ lại các điều mặc khải, cha giải tội yêu cầu Thánh nhân kể lại các điều được cảm nghiệm để các nữ tu thư ký ghi chép lại. Chỉ trong vòng sáu năm, các trang giấy ghi chép ấy đã tổng hợp thành năm bộ sách lớn.
Những gì chúng ta cho là phi thường thì đối với thánh nữ lại là điều bình thường. Ngài có thể đọc được tư tưởng của người khác, và tiên đoán các biến cố tương lai. Ngay khi còn sống, Thánh nhân đã xuất hiện với vài người ở cách xa nhau và đã chữa nhiều người khỏi bệnh.
Qua những ơn sủng kỳ lạ của thánh nữ, chúng ta tưởng rằng Thánh nhân luôn luôn sống trong trạng thái tinh thần cao độ. Sự thật thì khác hẳn. Dường như Thiên Chúa cho phép ngài được gần gũi với Chúa một cách đặc biệt là để chuẩn bị cho thời gian cô độc khi thánh nữ cảm thấy đời sống tâm linh khô khan một cách kỳ lạ. Vào năm mười chín tuổi ngài bắt đầu thời kỳ năm năm dài thật khô khan và lẻ loi, bị cám dỗ đủ mọi mặt. Tâm hồn ngài lúc ấy như một căn phòng tối đen với chút ánh sáng thật yếu ớt mà chỉ làm bóng đêm thêm dầy đặc. Ngài thật buồn sầu đến nỗi đã hai lần toan tự tử. Tất cả những gì ngài có thể làm để chống trả các cám dỗ là kiên trì cầu nguyện, hãm mình, phục vụ tha nhân dù rằng tất cả những điều ấy dường như vô nghĩa.
Năm 1604, bệnh nhức đầu và tê bại khiến Thánh nhân phải nằm liệt giường. Tất cả các giác quan của ngài thật nhạy ứng đến độ bất cứ đụng đến đâu, thân thể ngài đau khủng khiếp. Sau ba năm chịu đựng, Thánh nhân từ trần năm 1607 khi 41 tuổi. Giáo Hoàng Urban VIII đã tôn phong cô lên bậc Chân Phước ngày 08 tháng 5 năm 1626 và Giáo Hoàng Clement IX đã đôn cô lên hàng hiển thánh vào ngày 28 tháng 4 năm 1669.