I. NGUỒN GỐC LÒNG SÙNG KÍNH ĐỨC MẸ NÚI CÁT MINH
Đức Mẹ núi Cát Minh là Đức Mẹ được sùng kính trong Dòng Cát Minh. Núi Cát Minh (tiếng Do Thái là Karmel, nghĩa là vườn trái cây) ở phía bắc Palestina, cao hơn mặt biển 1,800 feet, nhìn ra Địa trung hải. Núi Cát Minh bên cạnh cánh đồng cỏ xanh tươi dưới con mắt của tiên tri Giêrêmia (50:19), với cảnh huy hoàng dưới ánh nhìn của tiên tri Isaia (35:2). Tiên tri Elia đã chọn núi Cát Minh làm địa điểm thách đố 450 sư sãi sát tế một bò tơ rồi kêu khấn thần Baal từ sáng đến tối mà không được chấp nhận bằng lửa thiêu. Tiên tri cũng sát tế một bò tơ dâng hiến Đức Giavê, và của lễ liền được Người chấp nhận bằng cách khiến lửa bởi trời xuống toàn thiêu lễ vật (1 V 18:20-40).
Cát Minh đã trở nên linh địa cho các ẩn sĩ trụ trì. Theo Đức Cha James Vitry, Giám mục thành Acre, bắc Palestina (1216-1228), các đan sĩ Carmelô tiên khởi sống đời sống cô tịch, chiêm niệm trong các phòng riêng như bọng ong theo giống mẫu tiên tri Elia và tận hiến cho Đức Mẹ. Từ thời Nghĩa binh Thánh giá, lòng sùng kính Đức Mẹ núi Cát Minh được chia ra ba thời kỳ:
1. Đức Mẹ Cát Minh được sùng kính như Bổn mạng gọi là “Bổn mạng các ẩn sĩ Cát Minh”. Về sau, các ẩn sĩ còn gọi Mẹ Maria là “Mẹ các ẩn sĩ Cát Minh”. Lòng sùng kính này đã dâng cao trong các thế kỷ XIII và XIV.
2. Trong hai thế kỷ XIV và XV, Đức Mẹ Cát Minh được sùng kính như “Đức Trinh Nữ rất trinh trong” toàn hiến cho Thiên Chúa cả hồn xác, và vẹn sạch mọi tội lỗi. Do đó, Dòng Cát Minh hăng say bênh vực tín lý Mẹ Vô nhiễm đang thời kỳ bàn cãi, chưa được định tín.
3. Sang giai đoạn thứ ba, lòng sùng kính Đức Mẹ Cát Minh được thực hiện qua “Áo Đức Mẹ Cát Minh” màu nâu, tượng trưng sự che chở đặc biệt của Đức Mẹ. Áo là một biểu tượng trong truyền thống Kitô giáo, nhất là ở Giáo hội Đông phương có “Ảnh Đức Mẹ áo choàng”. Áo Đức Bà cũng tượng trưng việc tận hiến cho Đức Mẹ.
II. LỊCH SỬ ÁO ĐỨC BÀ CÁT MINH
Vì gặp nhiều khó khăn, Dòng Cát Minh di chuyển sang Cambridge, nước Anh. Thánh Simon Stock là tu viện trưởng đã kêu xin Đức Mẹ cứu giúp. Ngày 16 tháng 7 năm 1251, Đức Mẹ hiện ra giữa số đông các thiên thần, trao áo Đức Mẹ mà phán: “Con yêu dấu, con hãy nhận lấy áo của dòng con đây làm biểu hiệu liên minh với Mẹ. Ai chết đang khi mặc Áo này sẽ không phải rơi xuống ngục lửa đời đời”. Đến ngày 3 tháng 3 năm 1322, Đức Mẹ hiện ra với Đức Gioan XXII trao cho ngài “Minh ước yêu đương” là truyền dạy ngài công bố cho những ai mang Áo Đức Mẹ biết: “Ngày thứ Bảy đầu tiên sau khi chết họ sẽ được cứu thoát khỏi luyện ngục”. Ân huệ này gọi là “Đặc ân ngày thứ Bảy” và được nhiều vị Giáo hoàng như các Đức Alexandrô V, Thánh Piô V, Grêgôriô VIII, và Phaolô V công nhận.
III. ĐẶC ÂN NGÀY THỨ BẢY ĐƯỌC GIÁO HỘI CHUẨN NHẬN
Ngày 30 tháng 1 năm 1613, trước sự hiện diện của Đức Phaolô V, Pháp đình Toà thánh sắc lệnh rằng các tu sĩ dòng Carmelô được truyền giảng “Đặc ân ngày thứ Bảy”, và ngày 04-7-1908 được Thánh bộ Ân xá chấp nhận.
Năm 1910 Đức Thánh Piô X ban phép đeo ảnh thay Áo Đức Mẹ. Thánh bộ công bố đeo ảnh thay Áo được hưởng mọi ân xá và Đặc ân ngày thứ Bảy, miễn là ảnh đó một bên là ảnh Chúa Giêsu tỏ Trái Tim Người ra. Bên kia là ảnh Đức Mẹ (không cần là Đức Mẹ Carmelô).
Năm 1922 kỷ niệm 600 năm Đặc ân ngày thứ Bảy, Đức Piô XI gửi một tông thư cho Bề trên Cả dòng Carmelô về những ân xá và đặc ân ngày thứ Bảy: “Ta khích lệ những người vào hội Áo Đức Mẹ hãy bền vững nhiệt thành giữ những điều chỉ dạy để hưởng những ân xá và Đặc ân ngày thứ Bảy. Vì Đức Mẹ yêu quí những ai yêu mến Mẹ, và không ai không có quyền tin tưởng sự hộ giúp đặc biệt của Mẹ trong giờ chết, nếu trong đời sống, họ xa lánh tội lỗi và làm mấy việc đạo đức kính Mẹ”.
Năm 1950, dịp kỷ niệm 700 năm Đức Mẹ hiện ra với thánh Simon Stock, Đức Piô XII gửi một tông thư cho Bề trên cả dòng Carmelô cũng nói về Đặc ân ngày thứ Bảy: “Áo Đức Mẹ là dấu hiệu và bảo chứng sự bảo trợ của Mẹ Thiên Chúa. Nhưng những người mặc Áo này đừng tin rằng dù họ trễ nải và lơ là việc thiêng liêng mà được ơn Cứu rỗi, như thánh Phaolô căn dặn: ‘Anh em hãy biết kính giới và run sợ mà gia công lo việc rỗi linh hồn mình’ (Pl 2:12)… Các đan sĩ Cát Minh hay hội viên Hội Áo Đức Mẹ hãy tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Trinh Nữ Maria. Nhờ lời cầu bầu của Mẹ trước toà Chúa, Mẹ sẽ mau chóng mở cửa thiên đàng sớm bao nhiêu có thể cho những con cái Mẹ đang chịu đền tội trong luyện ngục mà đã cậy trông vào lời hứa Đặc ân ngày thứ Bảy”.
IV. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỌC HƯỞNG ĐẶC ÂN NGÀY THỨ BẢY
Toàn dân Kitô hữu hãy đạo hạnh tin rằng Đức Thánh Trinh Nữ Maria luôn luôn can thiệp đem công đức và sự phù trì đặc biệt của Mẹ mà cứu vớt hết các hội viên Hội Áo Đức Mẹ Carmelô vào một ngày thứ Bảy, ngày đặc biệt dâng kính Mẹ, sau khi họ qua đời, miễn là họ lìa thế:
1. Đang khi được ơn nghĩa cùng Chúa.
2. Đang mang Áo Đức Mẹ.
3. Và giữ đức khiết tịnh tùy bậc mình.
4. Đã từng đọc kinh Nhật tụng kính Đức Mẹ, hoặc nếu không đọc được, thì đã giữ chay các ngày Giáo hội dạy, và kiêng thịt các ngày thứ Tư và thứ Bảy, trừ khi gặp lễ Giáng Sinh. Cách thay đổi thông thường nhất là hằng ngày đọc một chuỗi Mân côi hay là 7 kinh Lạy Cha, 7 kinh Kính mừng, và 7 kinh Sáng danh.
V. KINH ĐỌC BUỔI SÁNG CỦA NGƯỜI ĐEO ÁO ĐỨC BÀ
Lạy Thiên Chúa của con, con xin hợp với Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria (hôn Áo Đức Mẹ) để dâng cho Chúa Máu Thánh châu báu Chúa Giêsu trên các bàn thờ khắp thế giới. Con cũng xin hợp với Máu Thánh Chúa Giêsu để dâng cho Chúa mọi tư tưởng, mọi lời nói, và mọi việc làm của con trong ngày hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, ngày hôm nay, con ước mong được hưởng mọi ân xá mà con có thể được hưởng. Con cũng xin dâng các ân xá ấy cùng với chính mình con cho Mẹ Maria Vô nhiễm để Mẹ làm vinh danh Thánh Tâm Chúa.
Lạy Máu Thánh châu báu Chúa Giêsu, xin cứu chúng con. Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con.
VI. SỰ XÁC THỰC LỊCH SỬ ÁO ĐỨC BÀ
Sự kiện lịch sử Đức Mẹ hiện ra trao Áo Đức Mẹ cho Thánh Simon Stock rất xác thực do bốn bằng chứng:
1. Các bản thống kê của Dòng Cát Minh,
2. Chứng từ của cha William Sanvino, Dòng Cát Minh tại Đất Thánh năm 1291,
3. Mấy sự kiện lịch sử:
a) Hiến pháp Dòng Cát Minh năm 1294 và năm 1324 cho là một lỗi nặng nếu tu sĩ Dòng Cát Minh ngủ mà không mặc áo dòng (Scapular).
b) Hiến pháp Dòng Cát Minh năm 1369 qui định tuyệt thông cho một linh mục Dòng Cát Minh làm lễ mà không mặc áo dòng (Scapular).
c) Thánh Anphong và nhiều Thánh khác quả quyết rằng ai thực sự sùng kính Đức Mẹ, sẽ không phải hư mất.
4. Chứng từ của các Thánh:
a) Thánh De la Colombière nói: “Áo Đức Bà là một dấu tiền định như các việc khác sùng kính Đức Mẹ”.
b) Thánh Anphong nói: “Những bậc vị vọng ở đời thường lấy làm vinh hạnh vì có những người mang hiệu phục của mình. Đức Mẹ Đồng trinh Maria cũng hân hoan vì các con cái của Mẹ mang Áo Mẹ như vậy, để chứng tỏ họ thực sự đã hiến thân phụng sự Mẹ, và thuộc hẳn vào gia đình của Mẹ Thiên Chúa.
5. Thánh Gioan Boscô đã mặc Áo Đức Bà, chết năm 1888 và cũng vẫn mặc Áo Đức Bà khi được an táng. Thi hài ngài được cải táng năm 1929, Áo Đức Bà vẫn còn nguyên vẹn trong khi các áo ngài đã bị mục nát.
6. Nhiều vị Giáo hoàng tỏ lòng yêu thích Áo Đức Mẹ, đã ban nhiều ân xá.
VII. SỰ XÁC THỰC ĐẶC ÂN NGÀY THỨ BẢY
Ngày 3 tháng 3 năm 1322, Đức Mẹ hiện ra với Đức Gioan XXII và dạy phải công bố cho hết những ai mang Áo Đức Bà được biết: “Ngày thứ Bảy đầu tiên, sau khi họ chết, họ sẽ được cứu thoát khỏi luyện ngục”. Ân huệ này được gọi là “Đặc ân ngày thứ Bảy”. Để công bố đặc ân này, Đức Gioan XXII đã ban hành Tông huấn “Sacramen-tissimo uti culmine = Đỉnh núi Thánh”. Tông huấn này đã bị mất, nhưng theo sử gia Eugenio S. Joseph, nhiều bản sao năm 1421 đã chứng minh được sự xác thực của “Đặc ân ngày thứ Bảy”. Bản sao Tông huấn của Đức Clêmentê VII ngày 15 tháng 5 năm 1528 nói đến việc cứu thoát khỏi luyện ngục nhưng không được long trọng ban hành, vì Rôma bị cướp phá năm 1527. Ngày 12 tháng 8 năm 1530 Đức Clêmentê VII chính thức ban hành một bản sao mà chỉ nói đến lời hứa đặc biệt cứu giúp chứ không nói đến việc được cứu thoát khỏi luyện ngục.
VIII. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Khi lập thành dòng năm 1209, các ẩn sĩ Cát Minh kiến thiết một nguyện đường dâng hiến Đức Mẹ ở giữa đan viện và đặt nhiều kinh nguyện về Mẹ. Hàng tuần và hàng năm, các ẩn sĩ mừng lễ kính nhớ và tạ ơn Đức Mẹ đã gìn giữ che chở dòng. Thế kỷ XIV lễ kính nhớ Đức Mẹ được mừng trọng thể ngày 17 tháng 7 kỷ niệm ngày 17 tháng 7 năm 1274 bế mạc Công đồng Lyon (Pháp) đã ban phép Dòng Cát Minh tiếp tục sinh hoạt. Thế kỷ XV lễ này được đổi sang ngày 16 tháng 7. Trong thời kỳ sùng kính Đức Mẹ đồng trinh, các ẩn sĩ Dòng Cát Minh thay thế tước hiệu “Thánh Maria” trong sách lễ năm 1589 bằng tước hiệu “Đức Thánh Nữ Trinh”. Năm 1587 Đức Sixtô V ban phép Dòng Cát Minh được mừng lễ Đức Mẹ Cát Minh. Và khi di cư sang Âu châu, họ đặt tên nhà thờ của dòng họ là “Truyền tin”. Cuối thời Trung cổ, lòng sùng kính Đức Mẹ núi Cát Minh cùng với phong trào đeo Áo Đức Bà lan rộng, Đức Bênêđictô XIII truyền dạy mừng lễ Đức Mẹ núi Cát Minh khắp Giáo hội năm 1726. Năm 1960 lễ này chỉ còn là Lễ Nhớ.
IX. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ
1. Đức Mẹ núi Cát Minh là Đấng phù trợ Dòng Cát Minh và những người vào hội mặc áo Đức Bà là bảo chứng ơn phù trợ đặc biệt của Mẹ như Đức Mẹ đã hứa là ai chết mà mặc Áo Đức Bà thì khỏi phải sa hoả ngục.
2. Tước hiệu Đức Mẹ núi Cát Minh chứng tỏ Mẹ Maria là mẫu gương đời sống nội tâm. Đời sống nội tâm là đời sống mật thiết kết hợp với Chúa và làm cho mọi hoạt động bề ngoài có giá trị. Chúa Giêsu sánh ví đời sống nội tâm như cành nho với cây nho. Nếu cành nho khô héo không thể tiếp nhận được mạch nhựa của thân cây nho.
3. Giáo hội khích lệ con cái Giáo hội mặc Áo Đức Bà để được ơn phù trợ và được hưởng quyền bầu cử rất thế lực của Mẹ và như một phương thế biểu chứng đức tin.
4. Áo Đức Mẹ nhắc nhở người mặc về giá trị đời sống là con cái của Chúa và của Đức Mẹ sốt sắng tôn thờ Chúa và sùng kính Đức Mẹ.
X. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Dacaria 2:14-17.
Phần một sách triên tri Dacaria được viết quãng năm 520-519 trước Thiên Chúa giáng sinh. Tiên tri lo lắng tái thiết Đền thờ và đặc biệt phục hồi luân lý cho dân chúng. “Đức Giavê phán: Nữ tử Sion hãy reo lên vì Ta đến ở giữa ngươi”. Chúa đến cùng với sự kiện “nhiều dân tộc sẽ trở lại”. Chúa chúc lành nhưng đòi hỏi phải đáp trả bằng lòng tin và cải hối. “Đức Giavê sẽ chiếm hữu” nghĩa là sẽ bảo vệ nước Giuđêa.
Khi cầu xin Mẹ Maria, chúng ta luôn cậy trông quyền năng che chở của Thiên Chúa nhờ lời Mẹ cầu bầu. Những lời “Toàn dân hãy im đi trước nhan Đức Giavê” làm ta nhớ lại đời sống chiêm niệm của các ẩn sĩ Dòng Cát Minh. Ý nghĩa lệnh truyền này là dân chúng phải lắng nghe khi Chúa nói. Sự chiêm niệm đòi hỏi phải lắng nghe trong khi phụng thờ im lặng.
Phúc âm: Matthêu 12:46-50.
Ý nghĩa trực tiếp lời Phúc âm này là “Ai làm theo ý Chúa Cha” thì được chúc phúc. Lòng tin ngoan ngoãn càng có ý nghĩa hơn mối thân hệ họ hàng tự nhiên của Chúa Giêsu. Lời Phúc âm này cũng mời gọi chúng ta hãy coi tình môn đệ với Chúa Giêsu như mối thân hệ mới với Người. Giơ tay về phía các môn đệ của Người, Chúa Giêsu nói: “Bất cứ ai làm theo ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời, thì kẻ ấy là anh chị em và là mẹ Ta”. Khi làm theo ý Chúa Cha, chúng ta trở nên con cái của Người. Do đó, chúng ta được vào trong mối thân hệ anh chị em với Chúa Giêsu. Hơn thế nữa, với lòng tin ngoan ngoãn, chúng ta làm theo ý Chúa Cha là đem Chúa Giêsu vào nhà chúng ta, vào đời sống chúng ta. Như vậy, chúng ta là mẹ của Chúa cách tượng trưng vì chúng ta cho Chúa đời sống và sự hiện hữu một cách mới mẻ. Thánh sử Luca 8:19-21 cũng trình thuật lời Phúc âm này.
XI. LỜI CÁC THÁNH
– Thánh Bônaventura: Nơi luyện ngục, Mẹ Maria thường đích thân xuống an ủi các linh hồn đang bị giam cầm.
– Thánh Brigitta nghe Chúa Giêsu nói với Đức Mẹ: “Mẹ là Mẹ Con, là Mẹ tình thương. Mẹ là nguồn an ủi những linh hồn luyện ngục”.
– Mẹ Maria phán bảo Thánh Brigitta: “Mẹ là Mẹ của tất cả các linh hồn đang đau khổ trong luyện ngục. Nhờ lời từ ái Mẹ cầu xin cách này hay cách khác, những hình khổ các con Mẹ chịu trong nơi đó vì tội đã phạm khi còn sống đã được giảm bớt từng giờ từng phút… Một người nghèo lâm bệnh, quằn quại đau đớn và nằm liệt cô đơn trên giường bệnh, cảm thấy được an ủi khi có người đến ủi an. Cũng vậy, khi nghe kêu tên Mẹ, các linh hồn luyện ngục thảy đều được tràn ngập ủi an”.
– Thánh Vinh-sơn: Từ tâm của Mẹ Maria đối với các linh hồn luyện ngục thật cao cả. Nhờ Mẹ, các linh hồn ấy đã tìm được niềm ủi an. Rất Thánh Trinh Nữ an ủi và trấn an những người hấp hối và đón rước linh hồn họ”.
– Thánh Vinh-sơn: Từ tâm của Mẹ Maria đối với các linh hồn luyện ngục thật cao cả. Nhờ Mẹ, các linh hồn ấy đã tìm được niềm ủi an. Rất Thánh Trinh Nữ an ủi và trấn an những người hấp hối và đón rước linh hồn họ”.
– Thánh Bênađinô: Rất Thánh Đồng Trinh Maria sẽ cầu xin và áp dụng công trạng của Mẹ để giải cứu khỏi luyện ngục hết những linh hồn nào Mẹ muốn, nhất là các tôi trung của Mẹ.
– Thánh Anphong: Những tôi trung của Mẹ Maria thật là những người hạnh phúc. Không những Mẹ chí nhân chỉ cứu trợ họ khi họ còn sống ở cõi đời tạm này, mà tình bảo hộ của Mẹ còn trải dài trên họ tới cả luyện ngục.
XII. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
1. Đức Phaolô V: Toàn dân Kitô hữu hãy sốt sắng tin rằng Rất Thánh Trinh Nữ Maria luôn luôn can thiệp đặc biệt phù trì cứu vớt các hội viên hội Áo Đức Mẹ Cát Minh vào ngày thứ Bảy, ngày biệt kính Đức Mẹ, sau khi họ qua đời, miễn là họ chết đang khi được ơn nghĩa cùng Chúa, đang mang Áo Đức Mẹ và giữ đức thanh khiết tùy bậc mình, đã từng đọc kinh Nhật tụng kính Đức Mẹ, nếu không đọc được thì giữ chay các ngày Giáo hội qui định, và kiêng thịt ngày thứ Tư, thứ Bảy trừ khi gặp lễ Giáng sinh.
2. Đức Bênêđictô XIV: Đừng có ai từ khước lòng sùng kính Đức Mẹ Carmelô mà các Đức Giáo hoàng đã ban nhiều ân xá, vì nhờ Rất Thánh Trinh Nữ cầu bầu, Thiên Chúa đã làm nhiều phép lạ cho những người thực hành lòng sùng kính này.
3. Đức Piô XI: Ta khuyên nhủ những người Công giáo khắp thế giới hãy tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria núi Carmelô.
4. Đức Piô XII: Áo Đức Mẹ là dấu chỉ tận hiến cho Trái Tim rất thánh của Đức Nữ Trinh Vô Nhiễm, và là một bằng chứng sự che chở của Mẹ Thiên Chúa.
L.m. Phêrô, CMC