TIỀN ĐỀ: “Ngày Quốc Tế Phụ Nữ”[1] lần đầu tiên được tổ chức tại thành phố New York vào ngày 28 tháng 2 năm 1909. Một năm sau (1910), người ta đã chuyển sang ngày 8 tháng 3. Ngày Phụ Nữ 8/3 được các phong trào nữ quyền khởi xướng, rồi nhanh chóng được các phong trào của người theo chủ nghĩa xã hội tận dụng quảng bá và được phổ biến hóa, đôi khi mang tính lợi dụng ở những nước cộng sản. Đến năm 1975, Liên Hiệp Quốc chính thức đặt ngày này thành Ngày Quốc Tế Phụ Nữ để tôn vinh những người phụ nữ trên thế giới.
Ngày nay, Lễ Quốc Tế Phụ Nữ cho người đương thời một cơ hội dừng lại cảm nhận, trân trọng và thể hiện sự tôn vinh dành cho những người phụ nữ hiện diện trong cuộc sống và trong ký ức. Đúng ra, tất cả mọi ngày đều là thời gian để tôn vinh con người, đặc biệt là người phụ nữ. Để việc tôn vinh người phụ nữ không chỉ dừng lại ở thái độ của một ngày sống, ta thử tìm về hình ảnh của phụ nữ qua hai nền tảng dưới đây.
NỀN TẢNG KINH THÁNH: Sáng Thế Ký (x. St, II)[2] đã diễn tả vị trí rất cao quý của người phụ nữ. Từ thuở ban đầu khi Thiên Chúa (Thượng Đế) thực hiện công trình sáng tạo, Ngài đã dựng nên tất cả mọi loài; sau cùng, Ngài mới tạo dựng nên người phụ nữ đầu tiên (E-và) từ cạnh sườn của con người đầu tiên (A-đam). E-và được tạo dựng vào thời điểm hoàn hảo và bằng chất liệu quý nhất. Như vậy, theo Kinh Thánh, nơi người phụ nữ, ta có thể tìm thấy dấu ấn ý nghĩa viên mãn của thời gian, vẻ đẹp nguyên tuyền chiếm ngự không gian và nền tảng của phẩm giá con người.
Tuy nhiên, những ý nghĩa cao đẹp Thiên Chúa gửi gắm nơi hình ảnh của người phụ nữ chưa được thể hiện do E-và sử dụng sai lệch sự tự do của mình. Nàng đã ngây thơ chiều theo cơn cám dỗ, qua lời dụ dỗ của con rắn, đã nghi ngờ chính bản thể được phú bẩm và nổi cơn ham muốn được siêu vượt, đã quá cảm tính tự nhiên mà quên đi suy xét chiêm niệm chân lý nơi tâm hồn…; và nàng đã ăn trái cấm trong vườn địa đàng. Khi E-và vấp ngã mà không được A-đam, người bạn đời, nhận phần trách nhiệm để kịp thời sửa sai, nàng đã đánh mất vị thế tốt nhất. Hình ảnh của người phụ nữ từ đó nhạt phai, phảng phất oán trách và day dứt lương tâm. Cũng từ đó, với hình ảnh người phụ nữ nguyên thủy khuất mờ, ý nghĩa thời gian méo mó, không gian trở nên xù xì xấu xí, và phẩm giá con người cũng bị rẻ rúng bấp bênh.
Thiên Chúa đã biết trước điều đó, tới thời gian ấn định, Ngài thực hiện bước kế tiếp, đó là, Ngài đã chọn Con một của Ngài là Đức Giêsu sinh xuống trần gian (Nhập thể) để phục hồi và kiện toàn thực tại mất mát và dang dở (Gal 4,4-7). Thiên Chúa đã chọn Đức Maria, một thiếu nữ Do-Thái, đại diện cho phụ nữ nhân loại để sinh ra Đức Giê-su. Đức Maria được xem là “E-và Mới” và Mẹ đã phục hồi ở đỉnh cao nhất tất cả những gì E-và cũ đã để đổ bể. Với việc xin vâng để sinh Con Thiên Chúa, Đức Maria lắng nghe lời Chúa và suy niệm trong lòng để biết nói không với những ham mê thế tục; Mẹ đã khiêm nhượng để được Chúa dẫn dắt và dùng đức tin của mình để làm sức mạnh nội tâm. Qua đó, Mẹ đã phục hồi ý nghĩa thời gian, không gian và phẩm giá nhờ giới thiệu cho nhân loại “Thiên Chúa và con người” trọn vẹn là Đức Giê-su.
NỀN TẢNG VĂN HÓA DÂN TỘC (VN): Mỗi dân tộc có một câu chuyện “tạo dựng”, bên cạnh câu chuyện tạo dựng chung cho mọi dân tộc là truyện Sáng Thế Ký. Truyện Họ Hồng Bàng[3] có thể được coi là câu chuyện tạo dựng của dân tộc Việt Nam. Tổ tiên Việt, khi kể câu chuyện của mình, đã mô tả những nữ tổ tiên Việt đầu tiên – Vụ Tiên Nữ, Thần Long Nữ và Âu Cơ – đều có nguồn gốc thần tiên. Trong khi không phủ nhận những tổ phụ đầu tiên đền từ “phương Bắc” – hàm ý về một nền tảng thể lý chung với người Trung Hoa cổ đại, Triều-Hàn, Nhật Bản…, tổ tiên Việt muốn nhấn mạnh rằng văn hóa Việt được quyết định bởi những “tổ mẫu” có gốc gác thần tiên. Trong một nền văn hóa được xây dựng trên lối sống vốn định canh định cư, bên cạnh nét hòa tính (hài hòa Thiên-Địa-Nhân), nét mẫu tính (gồm cả nữ tính) mang dáng dấp thần linh chính là khoảng không mở vào bình an và huyền nhiệm cho tự do tâm linh và chiều kích tôn giáo. Duy trì và tham gia vào nét huyền mẫu (mẫu tính huyền nhiệm) chi phối rất lớn đến bản sắc văn hóa của con người Việt. Tóm lại, tổ tiên Việt đã gửi gắm nơi hình ảnh người phụ nữ Việt một cảm thức thần linh và sự hòa điệu của cuộc sống. Hình ảnh người phụ nữ Việt là tiền đề nhắc nhớ về nền văn hóa Việt ưu tiên quy hướng về chiều kích toàn vẹn hài hòa trọn vẹn với trời đất và luôn mở ra tương quan thân thương với đồng bào và đồng loại. Trên nền tảng “mẫu hòa” đó, văn hóa Việt thực chất không hề mất đi nét mạnh mẽ “nam tính” mà đúng là “nam tính” có bản sắc hơn và có nền tảng hơn – một hình thức “nam tính” không kỳ thị giới tính, nhưng là nền tảng thể hiện sức mạnh tình yêu và trách nhiệm cho cuộc đời.
TÔN VINH: Tôn vinh phụ nữ là thấy được phẩm giá và sứ vụ cao quý của người phụ nữ và đồng trách nhiệm với phụ nữ để mang đến những nét tươi đẹp cuộc đời. Trong văn hóa Việt, tôn vinh phụ nữ còn là cảm nhận, khám phá và thể hiện tính “huyền mẫu” nơi người phụ nữ Việt trong bối cảnh hôm nay.
HAPPY WOMEN’S DAY!
8/3/2022
Giuse Đinh Văn Điệp, O.Carm.
[1] Cf. “History of International Women’s Day”, https://www.internationalwomensday.com/Activity/15586/The-history-of-IWD (8/3/2022).
[2] Kinh Thánh (Công Giáo), http://www.conggiaovietnam.net/kinhthanh/home.htm
[3] Lược Sử Tộc Việt, “Các Phiên Bản Truyện Họ Hồng Bàng”, https://luocsutocviet.com/2021/10/11/555-cac-phien-ban-truyen-ho-hong-bang/ (8/3/2022).