Thời gian trôi đi thật nhanh, thế là một học kì trong nhà Dòng Cát Minh đã trôi qua. Những tiếng ve râm ran bên vườn nhà ai đó đã cho biết một mùa hè đã đến và công việc sắp tới của anh em chúng tôi, đó là đi mục vụ. Được phân bổ đi lên một giáo xứ miền truyền giáo của địa phận Kontum đã làm cho tôi có một sự hồi hộp. Nghe lại những câu truyện từ chuyến mục vụ hè những lần trước của các anh làm tôi càng thấy hồi hộp hơn. Và thế là cái ngày ấn định chúng tôi lên xe cũng đã đến.
Chúng tôi lên đường vào buổi chiều và thời gian chúng tôi di chuyển để tới được nơi mục vụ ấy là một đêm và nửa ngày hôm sau. Nhóm chúng tôi lần này đi có năm anh em trong nhà dòng và hai em giới trẻ đi cùng. Nhìn thấy hai người bạn đi cùng với đoàn, một người chuẩn bị bước vào đời sinh viên, một người đang là sinh viên, cảm nhận được sự nhiệt huyết của các bạn qua những câu chuyện trên đường đi làm cho tôi nhớ lại thời sinh viên, cái nhiệt huyết khi đi “mùa hè xanh” của mình. Thế nhưng lần này tôi đi với một chiều kích hoàn toàn khác. Suốt hành trình đêm đó là một ác mộng đối với tôi. Không phải do bởi chuyến đi dài, vì cái chuyện đi xe đường dài đã quá quen thuộc đối với tôi trong suốt thời gian đi học đại học, có khi còn dài hơn thế nữa, nhưng cái ác mộng của đêm đó đối với tôi đó là đoạn đường mà chúng tôi phải đi qua. Đường quá xấu! Ổ voi có, ổ gà có. Và đêm đó – một đêm ‘trắng’ thực sự đối với tôi. Đêm dài ác mộng đã qua khi xe đến Thành phố Kontum. Chúng tôi phải chờ để lên một xe khác di chuyển tiếp. Cảnh náo nhiệt ồn ào quen thuộc vào buổi sáng của Sàigòn không còn nữa, mà thay vào đó, một sự trầm lắng nhẹ nhàng của một thành phố vùng cao nguyên làm lòng tôi se thắt một cảm giác llạ thường. Sự mệt mỏi của hành trình đêm qua vẫn còn trên mỗi gương mặt của các thành viên trong đoàn chúng tôi và cái đói cũng làm cho sự mệt mỏi của chúng tôi tăng lên. Anh trưởng đoàn gọi một anh trong nhóm đi tìm mua đồ ăn sáng để mọi người lót dạ tranh thủ trong lúc chờ xe khác. Sáng hôm ấy cũng đem lại may mắn cho tôi.Tôi đã gặp lại người anh họ của mình đang sinh sống và làm việc tại thành phố này sau một thời gian khá lâu không gặp. Chúng tôi cùng uống với nhau một li cà phê và chia sẻ tình hình của nhau. Tôi rất mừng vì mọi chuyện vẫn tốt đẹp đối với anh. Thời gian nghỉ ngơi của chúng tôi đã hết.
Nơi chúng tôi mục vụ là vùng cuối của Kontum nên giờ đây, chúng tôi còn phải hai lần chuyển xe nữa mới tới được nơi đó. Quang cảnh trên đường càng trầm lắng hơn, không ồn ào náo nhiệt, không đông đúc, và mọi thứ đều có vẻ khác lạ. Khi đã tới được bến xe của huyện, chúng tôi lại chờ người tới đón chúng tôi về giáo xứ. Thêm một giờ xe chạy, chúng tôi đã tới giáo xứ Đakjak của Địa phận Kontum. Giáo xứ gồm có mười ba giáo họ. Các giáo họ là dânmiền núi. Chỉ có giáo họ Antôn là của bà con người xuôi lên đó làm ăn kinh tế.
Nơi đây không khí thật trong lành dễ chịu. Gam màu xanh núi rừng trải rộng. Mọi thứ khác cũng như đối nghịch hẳn với những gì đã quen ở thành phố. Dù mọi thứ đều xa lạ đối với chúng tôi, cả con người lẫn nơi ở, nhưng qua cách chào hỏi, cách mà bà con đón tiếp chúng tôi, tôi cảm giác có gì gần gũi thân thương, cái cảm giác mà giống như tôi đang ở quê nhà vậy. Cũng rất may mắn, cha sở nơi đây đặc trách về giáo dục của địa phận nên ngài có nhiều sáng kiến cũng như những thao thức về các chương trình giáo dục cho con em giáo dân. Chúng tôi đến thì mọi hoạt động hè của giáo xứ đẵ bắt đầu được nửa tháng rồi. Không chỉ có riêng đoàn của Dòng Cát Minh chúng tôi, tình nguyện hè còn có các nhóm sinh viên công giáo khác. Công việc của đoàn Dòng Cát Minh là cùng các bạn sinh viên tổ chức các lớp học. Trước tiên, tôi phải làm quen với các em nội trú, cách sinh hoạt của các em đồng thời cùng cộng tác với các bạn sinh viên trong việc ôn lại kiến thức cho các em. Các em ở đây thật bình dị. Trên đôi mắt luôn hiện lên vẻ trìu mến như mang một quyết tâm, quyết tâm đi tìm cái chữ. Trời mưa cũng như trời nắng, không quản đường sá xa xôi vất vả, ngày ngày các em đều tới lớp là chứng minh hùng hồn cho quyết tâm đó. Đồng hành với các em trong mấy ngày đầu tôi cảm thấy thương các em. Thương các em vì khả năng của các em có hạn. Hằng ngày đi học để biết được cái chữ, đối với các em, đó là một kì tích. Nhưng để có được cái chữ các em chắc cũng mất nhiều thời gian lắm. Thương các em một thì tôi lại khâm phục các em mười. Khâm phục vì ý chí, lòng quyết tâm và sự cố gắng vươn lên của các em. Người dân ở tuy cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng rất chân thành. Và tôi khâm phục nhất là tinh thần sống và giữ đạo của họ.
Có thể nói cao điểm của mọi hoạt động hè của giáo xứ đó là những ngày cuối tháng 7. Đó là việc tổ chức một chương trình thì cho các em sau thời gian học hè và một chương trình trại hè trong hai ngày dành cho các em. Những ngày đó cũng là những ngày đầy ý nghĩa đối với tôi vì được tham gia cộng tác hết mình cũng như tổ chức các hoạt động cho các em. Đó cũng như những ngày hội của các em. Khácvới những trải nghiệm mà các em chỉ thấy trên ti vi, ngày hôm nay, chính các em là những người trải nghiệm thật trong cuộc thi về kiến thức đã học mà chúng tôi tổ chức. Phần thi nào cũng có kẻ thắng kẻ thua nhưng thật bất ngờ với tôi, không phải là một em người kinh, nhưng một em dân tộc đã giành giải nhất.
Thời gian cao điểm hoạt động hè của giáo xứ đã qua đi. Hai tuần tiếp theo của tháng 8, công việc của anh em chúng tôi là đi thăm và chơi với các em thiếu nhi tại các giáo họ của bà con dân tộc. Với tôi, đây là lần đầu tiên tôi có một trải nghiệm thực tế để thấy được đời sống của bà con dân tộc như thế nào. Cuộc sống của bà con còn nhiều khó khăn vất vả. Vấn đề an sinh xã hội dường như không có. Cuộc sống của họ dựa vào củ sắn củ khoai và dựa vào núi rừng để sống. Tuy khó khăn là thế, nhưng khát vọng sống, khát vọng vươn lên hiện rõ mỗi người dân.
Một tháng mục vụ hè tuy không phải là ngắn nhưng cũng không phải là dài. Qua thời gian, qua những công việc và qua những cuộc gặp gỡ, tôi có được cái nhìn chân thực hơn về những mảnh đời. Trải nghiệm này giúp tôi trân trọng hơn những gì tôi có. Và từ trong sâu thẳm của lòng mình, cùng với anh chị em nơi tôi làm mục vụ hè, tôi nhìn ngắm và tạ ơn tình yêu thương vô bờ của Chúa.
Giuse Nguyễn Văn Tâm