Home / Các Thánh & Á Thánh / Thánh Têrêsa – Thầy Dạy Về Cầu Nguyện (Phần I: Lịch Sử)

Thánh Têrêsa – Thầy Dạy Về Cầu Nguyện (Phần I: Lịch Sử)

Theo tôi thì tâm nguyện không gì khác hơn là một mối tương quan thân mật giữa bạn hữu, một cuộc hàn huyên tâm tình với Đấng mà ta biết rằng mình được Người yêu thương” (Tiểu sử tự thuật, 8) – đó là câu nói bất hủ của Thánh Têrêsa Avila về tâm nguyện và lời tóm tắt về một đời sống cầu nguyện mà người cầu nguyện nên hướng tới. Thực vậy, có lẽ khái niệm cơ bản nhất về cầu nguyện là tình bạn thân mật của người cầu nguyện với Thiên Chúa. Các học thuyết về đời sống cầu nguyện và nhất là về những hướng dẫn trong thực hành cầu nguyện như trên đã làm cho Thánh nữ Têrêsa Avila xứng đáng được tôn phong là Tiến Sĩ Hội Thánh, nghĩa là thầy dạy về cầu nguyện. Các học thuyết ấy đã thổi vào Giáo hội như một làn gió mới, đóng góp vào kho tàng tinh thần của Giáo Hội (tạm gọi là) một phong trào (movement) đầy hữu ích và luôn tươi mới, nuôi dưỡng và làm phong phú sức sống của Giáo Hội. Trong bài viết này, người viết muốn trình bày ngắn gọn (1) lịch sử của phong trào tinh thần này và tóm gọn (2) một số tư tưởng và lời dạy của thánh Têrêsa Avila về cầu nguyện.

Thánh Têrêsa, tên đầy đủ là Teresa de Cepeda Ahumana, sinh năm 1515 ở Avila, Tây Ban Nha. Ngài sinh ra trong một gia đình có chín người anh trai và ba chị em gái. Lúc mới 9 tuổi, vì cảm phục và mong muốn bắt chước các gương anh hùng của các vị tử đạo sau khi được tìm hiểu về đời sống của các vị, Thánh nữ đã có ước muốn được tử đạo. Tuy nhiên, trong quãng thời gian xuân xanh của một thiếu nữ, Ngài thích đọc các sách đời với những truyện tiểu thuyết lãng mạn. Điều này khiến Ngài bị cuốn theo một lối sống trần tục mà sau này Ngài thường than thở tiếc nuối vì đã phung phí thời gian cho những ước muốn trần tục vô bổ ấy. Nhưng sau này, việc chuyên cần đọc các sách thiêng liêng đã làm Ngài tập trung và yêu mến đời sống cầu nguyện hơn. Năm 20 tuổi, Têrêsa gia nhập tu viện dòng kín Cát Minh Nhập Thể ở Avila lấy tên là Têrêsa của Chúa Giêsu. Cuộc sống của một đan sĩ không hề dễ dàng đối với Têrêsa trong những thời gian đầu. Tuy nhiên, khi bước vào cuộc sống mới này, Têrêsa bắt đầu được Thiên Chúa ban cho rất nhiều ân sủng cao cả và thường thường những ân sủng này đến với Thánh nữ một cách rất tình cờ. Đó là những niềm vui và sự ngọt ngào diễm phúc tràn ngập tâm hồn Thánh nữ mà chính Ngài không thể hiểu nỗi và cũng không hề mong đợi. Tuy nhiên, thánh giá luôn luôn đón đợi các tôi tớ của Thiên Chúa. Trong khi được nếm hưởng tình thân mật với Thiên Chúa, Thánh nữ bắt đầu cảm nhận sự nghi ngờ và sợ hãi đến nỗi nó xâu xé tâm hồn Ngài một cách mãnh liệt. Những sự nghi ngờ và sợ hãi này phần lớn là do môi trường và đời sống tôn giáo ở Tây Ban Nha vào thời của Ngài, một môi trường sống chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các phong trào cải cách và đổi mới trong đời sống Giáo Hội. Những phong trào cải cách ấy chủ yếu là kết quả của những nỗ lực của Đức Hồng Y Xít-nê-rốt (Cisneros), tổng giám mục Tô-le-đô (Toledo), một tu sĩ dòng Phanxicô và là cha giải tội của nữ hoàng Tây Ban Nha Ít-sa-be-la (Isabella). Được khởi xướng trước Công đồng Trentô (1545 – 1563), phong trào cải cách Công giáo Tây Ban Nha được khởi xướng trong khoảng nửa đầu cuộc đời của Thánh Têrêsa.

Vào thời của Thánh Têrêsa, phong trào cải cách ấy ảnh hưởng rất nhiều đến các giáo sĩ, tu sĩ và cả giáo dân, vì một trong những điểm quan trọng của phong trào cải cách này là lời kêu gọi hướng đến sự hoàn thiện Kitô giáo của các tín hữu được rửa tội. Vào thời điểm đó, nhiều tác phẩm về đời sống cầu nguyện, đời sống nội tâm, các bản dịch từ các Thánh Giáo Phụ và nhiều sách đạo đức khác được xuất bản, một điều xem ra rất hiếm trong Giáo Hội vào thời đó. Từ Hà Lan, đã xuất hiện phong trào tu đức hiện đại (Modern Devotion)[1] cùng với việc hệ thống hóa đời sống cầu nguyện. (Tưởng cũng nên chú thích rằng Hà Lan là nơi mà Giáo Hội Công Giáo phát triển rất mạnh mẽ theo chủ nghĩa mộ đạo (pietism)[2], một phong trào có xu hướng tập trung và nhấn mạnh hơn về đời sống cầu nguyện nội tâm (tâm nguyện) và chống lại các thực hành, hình thức và nghi lễ sùng kính bề ngoài). Từ đó, việc quan tâm, thích thú và thậm chí ước ao tìm kiếm những thị kiến hay mặc khải tâm linh của các tín hữu ngày càng lan rộng đến nhiều nơi trong Giáo Hội, trong đó có giáo hội Tây Ban Nha. Có thể thẳng thắn nhìn nhận rằng, phong trào cải cách này đã mang lại nhiều thành quả tốt đẹp nơi tâm hồn các tín hữu như những hình thức thực hành đạo đức tốt đẹp, nhưng cũng dẫn đến những hình thức thực hành sai lệch và méo mó.

Việc phong trào canh tân này chú tâm quá mức đến những hiện tượng phi thường như xuất thần, mặc khải tư, hay những hiện tượng thần bí phi thường khác làm cho các tín hữu tin rằng những điều phi thường đó là những khía cạnh cần thiết và ưu tiên cho một đời sống thánh thiện. Hay nói cách khác, chúng làm cho các tín hữu hiểu sai về sự hoàn thiện của người Kitô hữu là phải đạt đến mức độ thần hiệp cao siêu thay vì sống một đời sống hoàn thiện của đức ái trong Đức Kitô. Những người theo phong trào cải cách này nhấn mạnh đến đời sống cầu nguyện cá nhân quá mức đến nỗi các khía cạnh của đời sống Kitô hữu như phụng vụ, bí tích, thực hành các nhân đức được coi là không cần thiết. Họ nghĩ rằng họ đã có một đời sống cầu nguyện đỉnh cao nên không cần bất cứ điều gì khác. Họ cho rằng một mình họ có thể nên hoàn thiện đủ mà không cần tha nhân và sự hướng dẫn của Giáo Hội. Những điều kể trên được xem là nguy hiểm và có hại cho các tín hữu. Vì thế, Giáo Hội, với tất cả nỗ lực của mình, đã bắt giữ những người theo chủ nghĩa thiên cảm (illuminists) của phong trào tu đức hiện đại (Modern Devotion) và lên án họ là những kẻ dị giáo. Ở Tây Ban Nha thời đó, các tòa án dị giáo có rất nhiều quyền lực trong việc kết án những kẻ chống lại hay gây hại cho Giáo Hội. Không những thế, toà án dị giáo còn lên án mọi hình thức cầu nguyện huyền bí hay chiêm niệm. Nó cũng lên án mọi tài liệu hay các sách hướng dẫn về cầu nguyện dưới bất kỳ hình thức nào, thậm chí bao gồm cả các hướng dẫn linh thao của Thánh I-nha-xi-ô.

Thánh Têrêsa đã sống trong một môi trường như vậy, một môi trường đầy sự nghi ngờ về bất kỳ hình thức cầu nguyện nào không phải là khẩu nguyện (như cầu nguyện Các Giờ Kinh Phụng Vụ, lần chuỗi Mân Côi, v.v.). Thánh Têrêsa là một nữ tu Cát Minh và cũng là một nữ tử trung thành của Giáo Hội, theo như Ngài mô tả về mình trong những ngày cuối cùng của đời Ngài. Vì thế, Thánh nữ, trong mọi hoàn cảnh, luôn luôn khao khát sống vâng phục Giáo Hội. Ngài tôn trọng các quyết định của Giáo Hội và mong muốn sống một đời sống cầu nguyện “đúng đắn” như Giáo Hội dạy, đó là tránh xa mọi hình thức cầu nguyện thần bí và chuyên tâm thực hành các phương thế cầu nguyện truyền thống. Tuy nhiên, càng cố gắng cầu nguyện một cách “đúng đắn,” Thánh nữ càng bị cuốn hút vào một lối cầu nguyện thần bí (chiêm niệm) mà không có bất kỳ nỗ lực hay ý định nào của riêng Ngài. Têrêsa vô cùng sợ hãi vì Ngài vẫn tin rằng lối cầu nguyện chiêm niệm là hết sức nguy hiểm và Ngài có thể sẽ bị kết án bởi Giáo Hội nếu như bị phát hiện. Qua đây chúng ta có thể tưởng tượng rằng với một con người khiêm nhượng và luôn vâng phục như Têrêsa, Thánh nữ chắc hẳn phải lo lắng và đau khổ rất nhiều khi nghĩ rằng mình đã không vâng phục Giáo Hội. Thánh nữ đã trải qua một thời gian đau khổ và đầy bối rối. Ngài đã quyết định tìm kiếm lời khuyên từ các vị linh hướng của Ngài. Một số vị linh hướng đã quả quyết với Thánh nữ rằng Ngài đã bị ma quỷ lừa dối và lối cầu nguyện thần bí này là do ma quỷ soi dẫn chứ không phải đến từ Thiên Chúa. Nhưng một trong các vị linh hướng của Ngài, một tu sĩ Dòng Tên, Cha Đi-ê-gô Xê-ti-na (Diego Cetina), đảm bảo với Ngài rằng các hiện tượng thần bí xảy ra trong khi cầu nguyện của Ngài đến từ Thiên Chúa. Tuy nhiên, Cha khuyên Têrêsa không nên tìm kiếm các an ủi thụ động trong cầu nguyện và nên để tâm suy niệm cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Một vị linh hướng thánh thiện khác, là một vị thánh tương lai của Dòng Tên, Thánh Phan-xi-cô Bo-gi-na (Francis Borgina), khuyến khích Têrêsa bắt đầu cầu nguyện bằng việc suy gẫm về cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô nhưng không nên chống lại ân sủng khi bị lôi cuốn vào các kinh ngiệm thần bí trong khi cầu nguyện, kinh nghiệm mà Ngài cho rằng do chính Thiên Chúa ban cho Têrêsa. Lúc này, Thánh nữ Têrêsa cảm thấy yên tâm và tin tưởng rằng những kinh nghiệm thần bí ấy đến từ Thiên Chúa và Ngài đã không làm gì để bất tuân Giáo Hội. Những lo lắng và sợ hãi trong Ngài tạm lắng xuống khi Thiên Chúa gửi đến cho Ngài một linh mục thánh thiện, Phan-xi-cô Bo-gi-na, để hướng dẫn Ngài trong thời gian thử thách ấy. Sau những thời gian thử thách ấy, Thánh nữ chuyên tâm vào đời sống cầu nguyện kết hợp mật thiết với Thiên Chúa cũng như múc lấy sức mạnh và tìm kiếm Thánh Ý Người trong sứ vụ cải cách Dòng Cát Minh. Ngài đã rút ra được nhiều kinh nghiệm của bản thân về cầu nguyện hơn là học hỏi từ sách vở hay trường lớp. Đời sống cầu nguyện của Têrêsa càng ngày càng hoàn thiện nhờ lắng nghe những chỉ dẫn của Thiên Chúa qua các vị linh hướng của Ngài.

Hết phần I

Trên đây là tóm lược giai đoạn lịch sử và phân định của Thánh nữ Têrêsa Avila liên quan đến cầu nguyện. Bài viết tiếp theo (Phần II) chúng ta sẽ nói về các tư tưởng chính của Ngài về đời sống cầu nguyện mà theo Ngài là hết sức quan trọng để tiến tới một đời sống cầu nguyện hoàn hảo theo thánh ý Chúa.

[1] Phong trào tu đức nguyện ngắm này xuất hiện ở thế kỷ 15 để thỏa mãn nhu cầu cải cách của giới thánh chức đương thời. Đây là một phong trào cải cách tôn giáo, kêu gọi một sự đổi mới có tính tông đồ thông qua việc tái khám phá những thực hành đạo đức chân chính như khiêm nhường, vâng phục và giản dị trong đời sống.

[2] Phái mộ đạo là chủ nghĩa sùng đạo xuất hiện như một phong trào ở thế kỷ thứ 17 và 18 do hai phái: Lutherô (Lutherans) và Cải Cách chủ trương. Phái này hướng về sự liên hợp giữa thần bí với thực tế; đồng thời phản đối lại Phái Chính Thống, một phái quá thiên về thuần giáo lý và hình thức – Theo từ điển Công Giáo.

 

Hồng Sơn

Check Also

Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô và Dòng Cát Minh

Chúng ta, những người con của Dòng Cát Minh, với một nỗi buồn sâu thẳm, …