Lời cầu nguyện của các môn đệ
Lc 11:1 – 13
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Cha là Đấng hay thương xót,
Nhân danh Chúa Kitô con Cha, chúng con khẩn cầu cùng Cha,
Xin Cha hãy ban Ân Huệ xuống cho chúng con,
Xin Chúa hãy tuôn đổ Thần Khí Chúa trên chúng con!
Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng Phù Trợ
Xin hãy dạy cho chúng con cầu nguyện trong chân lý,
trong Đền Thờ mới
chính là Chúa Kitô.
Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng trung tín với Chúa Cha và với chúng con,
như chim có tổ,
xin hãy bàu chữa liên lỉ với Chúa Cha cho chúng con,
Bởi vì chúng con không biết cầu nguyện như thế nào.
Thần Khí của Chúa Kitô,
Quà tặng đầu tiên dành cho chúng con là những người tin Chúa,
xin hãy cầu nguyện không ngừng nghỉ với Chúa Cha cùng chúng con,
như Con Người đã dạy cho chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Để trợ giúp chúng ta hiểu đoạn văn:
Bài Tin Mừng được chia thành ba đoạn:
Lc 11:1-4: Lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy
Lc 11:5-8: Dụ ngôn người bạn quấy rầy
Lc 11:9-13: Giáo huấn về hiệu quả của lời cầu nguyện
b) Tin Mừng:
1 Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông.” 2 Người bảo các ông: “Khi các con cầu nguyện, hãy nói:
“Lạy Cha, nguyện xin danh thánh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến.
3 xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày;
4 và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con;
và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.”
5 Và Người còn bảo các ông rằng: “Nếu ai trong các con có người bạn, nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: “Anh ơi, xin cho tôi vay ba cái bánh; 6 vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, và tôi không có gì thiết đãi anh ấy”; 7 và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: “Xin anh đừng quấy rầy tôi; vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi; tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được? 8 Thầy bảo các con, dẫu người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
9 “Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. 10 Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. 11Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nóxin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? 12 Hay nó xin quả trứng lại cho nó con bò cạp ư? 13 Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao? ”
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
– Giống như các môn đệ, chúng ta cũng hãy cùng nhau tề tựu chung quanh Chúa Giêsu đang cầu nguyện một mình. Chúng ta quây quần chung quanh Người và trong Người với tất cả sức lực của chúng ta, mọi ý nghĩ, mọi lời cam kết và mối bận tâm, niềm hy vọng và nỗi đau khổ của chúng ta…
– Ngày nay chính chúng ta là những môn đệ trông thấy Thầy mình đang cầu nguyện và tự cho phép mình được tham gia vào việc cầu nguyện của Người, trong đó, một cách rõ ràng, là khá đặc biệt.
– Hôm nay, lời của Người đang nói với chúng ta, lời mời gọi tin tưởng vào tình yêu của Chúa Cha gửi đến cho chúng ta. Chúng ta đã mải mê với những thứ vật chất, rất nhiều kiếm tìm với “tất cả và ngay lập tức”, do đó say mê bởi một ngàn thứ, rồi sau đó (và chỉ “sau đó”, sau một vài biến cố làm chúng ta bàng hoàng sửng sốt) chúng ta khám phá ra rằng tất cả những thứ đó chỉ là phù phiếm …
– Hôm nay, đó chính là tùy thuộc vào chúng ta để dâng lên lời cầu nguyện của Thầy Chí Thánh: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…
4. Một vài câu hỏi
Chúng ta hãy dùng cơ hội này để kiểm điểm lại cách cầu nguyện của chúng ta:
* Việc cầu nguyện mang ý nghĩa gì đối với tôi: Đó có phải là một bổn phận? Một sự tạm dừng trong việc tìm kiếm bản ngã? Đó có phải là việc dâng lên Thiên Chúa với một danh sách các lời cầu xin? Một lúc tạm dừng cùng với Đức Chúa Cha? Đó có phải là một cuộc đối thoại tin tưởng và đơn giản với Đấng hết lòng yêu thương tôi không?
* Tôi đã dành ra bao nhiêu thời gian cho việc cầu nguyện: một ít phút mỗi ngày? hay mỗi tuần một lần hay mỗi tháng một lần? Thỉnh thoảng? Có đều đặn thường xuyên không? Tôi có chờ cho đến lúc “cảm thấy có nhu cầu” thì mới cầu nguyện không?
* Điểm khởi đầu cho lời cầu nguyện của tôi là gì: Đó có phải là Lời Chúa không? Có phải là ngày lễ của một vị thánh hay là ngày của nghi lễ phụng vụ không? Đó có phải là do lòng sùng kính Đức Mẹ không? Đó có phải là một bức tượng hay bức hình không? Có phải là từ các sự kiện quan trọng trong đời sống của tôi hoặc trong lịch cử của thế giới không?
* Tôi gặp gỡ ai khi tôi cầu nguyện: Nhìn sâu vào bản thân mình, khi cầu nguyện, tôi đã cầu nguyện với người mà tôi cảm thấy là quan tòa phê phán tôi hay là tôi cầu nguyện với một người bạn? Tôi có cảm thấy Chúa là một người “bằng vai” với tôi hay là một “Đấng Thánh”, vô định hay không thể đến gần được không? Chúa có gần bên tôi không hay là xa vời và lãnh đạm? Người là Chúa Cha của tôi hay là Thầy tôi? Chúa có quan tâm tới tôi không hay là “Người bận rộn với các việc của Người”?
* Tôi cầu nguyện như thế nào: tôi có cầu nguyện một cách máy móc không, có dùng những khuôn sáo có sẵn không? Tôi có cầu nguyện bằng các đoạn Thánh Vịnh hoặc các đoạn Kinh Thánh khác không? Các lời của bài đọc Phụng Vụ không? Tôi có chọn cầu nguyện bằng những lời tự phát không? Tôi có đi tìm các văn bản với lời lẽ văn hoa hay tôi thích lặp lại những lời nguyện ngắn? Tôi đã xử dụng “lời cầu nguyện của Chúa” như thế nào? Tôi có thường xuyên cầu khẩn Thiên Chúa vì những nhu cầu hay vì muốn ca ngợi Người trong những lời phụng vụ hoặc chiêm niệm Người trong thinh lặng? Tôi có khả năng cầu nguyện trong lúc làm việc không, hoặc tại bất cứ nơi nào hoặc chỉ khi trong nhà thờ mà thôi? Tôi có khả năng tự mình soạn ra lời cầu nguyện phụng vụ của riêng tôi không? Mẹ Thiên Chúa có chỗ đứng nào trong những lời cầu nguyện của tôi?
5. Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Bài Tin Mừng này trình bày lời cầu nguyện như là một trong các nhu cầu căn bản và là một điểm quan trọng trong đời sống của người môn đệ của Chúa Giêsu và của cộng đoàn các môn đệ.
Các câu 1–4: Chúa Giêsu, như những bậc đại tôn sư trong thời đại của Người, dạy các môn đệ mình một lời cầu nguyện sẽ xác định căn tính của họ: “Kinh Lạy Cha”.
a) Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện: Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi. Theo Phúc Âm của Luca, Chúa làm điều này thường xuyên (5:16), nhất là trước những biến cố quan trọng: trước khi chọn Nhóm Mười Hai (6:12-13), trước khi kêu mời Phêrô tuyên xưng đức tin của mình (9:18-20), trước khi Chúa biến hình (9:28-29), và sau cùng, trước cuộc thương khó (22:40-45).
Khi Chúa Giêsu cầu nguyện, Người đã gợi lên trong lòng các môn đệ một niềm ước ao cầu nguyện giống như Người. Một cách rõ ràng, lời cầu nguyện tự nó đã cho thấy bên ngoài trong một phương thức rất đặc biệt và chắc chắn đã ảnh hưởng đến sự rao giảng của Người. Các môn đệ hiểu rằng lời cầu nguyện như thế thật là hoàn toàn khác so với những gì đã được dạy bởi các bậc tôn sư tại Israel hay thậm chí ngay cả những người đi trước Chúa Giêsu. Đó là lý do tại sao các ông xin Chúa dạy cho các ông cầu nguyện. Do đó, lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ mình trở thành lời diễn đạt đặc trưng của lý tưởng và căn tính của họ, trong cách các ông liên quan với Thiên Chúa và với nhau.
b) Chúa Cha: Điều đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy về cầu nguyện là gọi Thiên Chúa là “Cha”. Không giống như Luca, Mátthêu đã không thêm vào đại danh từ sở hữu chủ “của chúng tôi”, ít nhấn mạnh hơn về khía cạnh cộng đoàn của kinh nguyện Kitô hữu. Mặt khác, sự việc cách gọi Chúa Cha, là yếu tố tạo thành chất kết hợp tốt nhất của cộng đoàn các môn đệ.
Đối với người Do Thái vào thế kỷ thứ nhất, mối quan hệ với cha là một trong những mối quan hệ thân mật, mà cũng là một sự thừa nhận thẩm quyền của người cha trên mỗi thành viên của gia đình. Điều này được phản ảnh trong phong tục người Kitô hữu gọi Thiên Chúa là “Chúa Cha”, trong khi đó không có một bằng chứng cụ thể nào cho rằng người Do Thái thời bấy giờ đã quen gọi Thiên Chúa với một chữ thân mật “abba”. Chữ này không có gì khác hơn là hình thức nhấn mạnh của tiếng Aram “ ‘ab”, một từ ngữ quen thuộc và kính trọng được dùng cho những người cha trần thế.
Sự việc mà Chúa Giêsu đã hướng về Thiên Chúa và gọi Thiên Chúa là abba, cho thấy một mối quan hệ mới mà Người, và các môn đệ do đó, đã thiết lập với Thiên Chúa: Một mối quan hệ thân thiết, quen thuộc và tín thác.
Trong giản đồ hệ thống cổ điển của lời cầu nguyện Kinh Thánh, phần đầu của “kinh Lạy Cha” là thưa chuyện trực tiếp với Thiên Chúa, trong khi phần thứ hai đề cập đến các nhu cầu của con người trong cuộc sống trần gian này.
c) Lạy Cha, nguyện xin danh thánh Cha cả sáng: trong lời mặc khải của các tiên tri Israel, chính Thiên Chúa là Đấng đã “tự thánh hóa Danh của Người” (có nghĩa là, chính Chúa: “danh tức là người”) can thiệp với quyền năng trong lịch sử nhân loại, ấy thế mà dân Israel và các dân khác đã xúc phạm đến Chúa. Trong sách Edêkien chúng ta đọc thấy: “Chúng đã làm cho danh Ta bị xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến, khiến người ta nói về chúng rằng: ‘Đó là dân của ĐỨC CHÚA, chúng đã phải ra khỏi xứ của Người.’ Nhưng Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã bị nhà Ít-ra-en xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến. Vì thế, ngươi hãy nói với nhà Ít-ra-en: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi nhà Ít-ra-en, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến. Ta sẽ biểu dương danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – khi Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt chúng. Bấy giờ, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại từ khắp các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi.” (36:20-24). Trong cùng một đề tài chúng ta cũng có thể đọc: Đnl 32:51; Is 29:22; Ed 28:22-25).
Chủ đề của động từ “thánh thiêng”, trong Lc 11:2, chính là Thiên Chúa: chúng ta đang phải đối diện với sự “thần học thụ động”. Điều này có nghĩa là lời khẩn cầu thứ nhất của lời cầu nguyện này không liên quan gì đến loài người và bổn phận không thể chối cãi của họ là phải tôn vinh và kính trọng Thiên Chúa, mà chính Chúa Cha là Đấng phải được biết đến với tất cả mọi loài. Vì vậy, chúng ta khẩn cầu cùng Thiên Chúa để Người mặc khải cho chúng ta trong quyền năng tối thượng của Người: đây là một lời khẩn cầu với ý nghĩa cánh chung, được nối kết chặt chẽ với lời khẩn cầu sau đây.
d) Nước Cha trị đến: sự kiện vĩ đại được công bố bởi Chúa Giêsu là việc khẳng định Nước Trời sắp đến giữa chúng ta: “Hãy chắc chắn điều này: Triều đại của Thiên Chúa đã đến gần” (Lc 10:11; và xem Mt 10:7). Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu và của các Kitô hữu, khi ấy, là sự hòa hợp chặt chẽ với lời công bố này. Việc cầu xin trong lời cầu nguyện này là Triều Đại Thiên Chúa đã và đang hiện diện rõ ràng hơn bao giờ hết, trên thực tế, có hai hiệu quả: người đang cầu nguyện phải đến mặt đối mặt với kế hoạch ngày cánh chung của Thiên Chúa, mà cũng còn với bổn phận sẵn lòng nhiệt thành phục vụ cho ý muốn cứu rỗi của Chúa Cha. Vì thế, nếu đúng là chúng ta có thể và phải thưa với Đức Chúa Cha về các nhu cầu của chúng ta, thì cũng đúng là lời cầu nguyện của người Kitô hữu không bao giờ có loài người trong lời kết của nó, nó cũng không bao giờ là một lời cầu xin vị kỷ, nhưng kết thúc sau rốt của nó là để vinh danh Thiên Chúa, cầu khẩn sự gần gũi trọn vẹn của Người, sự khải hiện hoàn toàn của Người: “Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Lc 12:31).
e) Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày: chúng ta đã tiến đến phần thứ hai của lời cầu nguyện của Chúa. Người cầu nguyện bây giờ đã đưa vào áp dụng mối quan hệ mật thiết và chính xác với Thiên Chúa, và hiện đang sống trong sự mật thiết hợp lẽ với Thiên Chúa là Chúa Cha và những lời cầu xin của người ấy xuôi chảy từ cách sống này.
Trong thời đại của Chúa Giêsu, cũng (gần giống) như thời đại của chúng ta, bánh là lương thực thiết yếu nhất, là chất dinh dưỡng chính. Tuy nhiên, trong trường hợp này, “bánh” tượng trưng cho thực phẩm nói chung, và hơn thế nữa, tất cả các nhu cầu vật chất của các môn đệ.
Danh từ “bánh” là bản dịch từ chữ Hy-Lạp “epiousion”, cũng được thấy trong Phúc Âm Mátthêu nhưng không thấy trong bất kỳ bản kinh thánh Hy-Lạp hoặc văn bản ngoài kinh thánh nào khác. Điều này đã khiến cho khó có thể mà đưa ra một phiên bản thực sự đáng tin cậy, vì thế mà chúng ta bị hạn chế trong việc phiên dịch danh từ này một cách chuẩn xác theo bối cảnh.
Tuy nhiên, có điều rõ ràng là người môn đệ khi cầu nguyện theo ý này thì hiểu rằng sẽ không có nhiều của cải vật chất trong tương lai, thậm chí ngay cả thức ăn hằng ngày: người ấy đã thực sự “từ bỏ tất cả mọi sự” để đi theo Đức Kitô (xem Lc 5:11). Ở đây chúng ta đang bàn luận tới đặc tính tình trạng của thế hệ tiên khởi của những người Kitô hữu. Điều này không có nghĩa là lời cầu nguyện xin “bánh” không còn thiết thực với các Kitô hữu ngày nay nữa: Tất cả chúng ta được kêu gọi để nhận lãnh tất cả mọi thứ từ Thượng Đế, như một món quà cho không từ Thiên Chúa, ngay cả khi những thứ này có được từ sức lao động bởi đôi tay chúng ta. Việc dâng của lễ Thánh Thể nhắc nhở chúng ta điều này trong mọi lúc: chúng ta dâng lên Thiên Chúa những gì chúng ta biết rõ là đã được nhận lãnh từ Thiên Chúa để chúng ta có thể nhận lãnh trở lại từ tay Người. Điều này cũng có nghĩa là người Kitô hữu thuộc mọi thời đại không nên quá bận tâm với tình trạng vật chất của mình, bởi vì Chúa Cha sẽ chăm sóc người ấy: “Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc” (Lc 12:22-23).
f) Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con: Người Kitô hữu, được đắm mình trong sự cứu rỗi ban cho bởi Đức Chúa Cha với Triều Đại sắp đến của Người, biết rằng tất cả tội lỗi của người ấy đã được tha thứ. Điều này đặt để người Kitô hữu trong điều kiện và bổn phận phải tha thứ cho những người khác, do đó cho phép Thiên Chúa cũng có thể dứt khoát tha thứ cho người Kitô hữu giống như họ đã tha thứ cho anh em mình (xem Mt 18:23-25).
Chúng ta luôn chần chừ giữa vương quốc “đã” hiện hữu và vương quốc “chưa” đạt được. Một người Kitô hữu cư xử trái với ơn cứu độ đã nhận được từ Thiên Chúa qua Đức Kitô, làm cho sự tha thứ mà người ấy đã nhận được trở nên vô dụng. Đó là lý do tại sao Luca đã nói: “như chính chúng con tha thứ”. Luca không muốn đặt để loài người chúng ta ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng chỉ để cho chúng ta biết rằng chúng ta có thể làm hỏng công cuộc cứu rỗi của Thiên Chúa, trong đó Đức Chúa Cha đã sẵn lòng bao gồm cả chúng ta như một nhân tố tích cực, để mở rộng ơn tha thứ nhưng không của Người đến tất cả mọi người.
Các câu 5-8: không chỉ là một dụ ngôn, đây là một sự so sánh, bởi vì nó minh họa một thái độ điển hình gợi lên trong những người nghe một câu trả lời tự phát và duy nhất. Trong trường hợp này, sẽ khó mà tìm ra được bất cứ ai có thể trả lời một cách nhanh nhảu “không có ai!” cho câu hỏi “Người nào…? (Câu 5). Như vậy, đoạn Tin Mừng này muốn chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa hành động như thế nào qua sự gạn lọc của cung cách cư xử con người, tức là một bản sao chép nghèo nàn của cung cách cư xử của Đức Chúa Cha.
Cảnh được diễn ra trong một vùng đất Paléstine. Thông thường, bất cứ ai đi trên một cuộc hành trình dài sẽ bắt đầu vào lúc hoàng hôn để tránh nhiệt độ rất nóng của ban ngày. Trong nhà của người Paléstine vào thời ấy, chỉ có một gian phòng và cả gia đình xử dụng nó cho tất cả các hoạt động trong ngày cũng như dùng để ngủ vào ban đêm bằng cách chỉ cần trải chiếu dưới sàn nhà.
Lời yêu cầu của người đàn ông mà bất chợt có một người khách viếng thăm giữa đêm khuya, phản ảnh một cảm giác đặc thù về sự hiếu khách của những người xưa, và lời giải thích về sự yêu cầu của “ba chiếc bánh” (câu 5) đó là một bữa ăn bình thường cho một người lớn.
Người đàn ông đã tin tưởng người bạn mình vào ban đêm là hình ảnh người môn đệ của Chúa Kitô, được mời gọi để cầu nguyện cùng Thiên Chúa liên lỉ mọi nơi và mọi lúc, một sự tin tưởng hoàn toàn rằng người ấy sẽ được lắng nghe, không phải bởi vì người ấy đã quấy rầy Thiên Chúa, nhưng bởi vì Người là một người Cha giàu lòng thương xót và là Đấng trung tín với mọi giao ước của Người. Do đó, dụ ngôn cho chúng ta thấy một người môn đệ nên phải cầu nguyện “kinh Lạy Cha chúng con” như thế nào: với một lòng trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa, Chúa Cha yêu thương và công bằng, một lòng trông cậy mà ngay cả những việc táo gan nhất là “quấy rầy Người” vào bất cứ lúc nào và nài nỉ với Người trong mọi việc, chắc chắn là sẽ được trả lời.
Cầu nguyện, được xem như là một thái độ căn bản của mỗi người Kitô hữu muốn thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu, được diễn đạt rành mạch bởi thánh Phaolô tông đồ: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1Tx5:17-18); “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh” (Ep 6:18).
Các câu 9-13: phần cuối bài Tin Mừng của chúng ta đúng ra được gọi là phần hướng dẫn kiến thức. Nó tóm tắt chủ đề của các câu trước, nhấn mạnh đến lòng tin tưởng phải được biểu thị bằng lời cầu nguyện của người Kitô hữu, dựa trên một đức tin vững vàng. Chính đức tin của người cầu nguyện sẽ mở rộng cánh cửa đến trái tim của Chúa Cha, và đó là bản sắc của Chúa Cha, Đấng luôn sẵn lòng che chở con cái Người trong vòng tay và an ủi chúng với sự trìu mến của một người mẹ (xem Is 66:12-13), là phải nuôi dưỡng đức tin của các Kitô hữu.
Thiên Chúa là một người Cha thích được nhận những lời cầu xin của các người con, bởi vì điều này cho thấy rằng họ đã đặt lòng trông cậy vào nơi Người; để cầu xin, họ phải tiến đến Người với tấm lòng rộng mở; vì cầu xin đã thúc đẩy họ phải nhìn đến gương mặt nhân hậu và yêu thương của Người, vì bằng sự cầu xin (kể cả cầu xin gián tiếp) họ cho thấy là họ tin tưởng rằng Người đích thực là Chúa của mọi thời đại và của thế giới, và hơn hết cả, bởi vì lời cầu xin của họ đã tạo cơ hội cho Người sẵn sàng công khai tỏ ra tình yêu cho không, ân cần, và tinh tế của Người chỉ vì lợi ích của con cái Người. Điều làm phiền lòng Chúa Cha không phải là những lời cầu xin khăng khăng hoặc thiếu cân nhắc của con cái Người, mà đó là họ không cầu xin một cách đầy đủ, giữ im lặng và hầu như thờ ơ với Người, là họ lánh xa với một ngàn lý do bào chữa khách sáo, chẳng hạn như “Chúa đã biết tất cả mọi việc”, v.v. Thiên Chúa chắc chắn là một người Cha, Đấng cung cấp tất cả mọi sự và chăm sóc cuộc sống hằng ngày của con cái Người, nhưng, đồng thời Người cũng biết điều gì tốt đẹp nhất cho họ, thậm chí còn biết rõ hơn họ nữa. Đó là lý do tại sao Chúa tuôn đổ trên các Kitô hữu những điều tốt đẹp, và hơn hết cả, món quà tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần, món quà duy nhất thật sự không thể thiếu cho đời sống của họ, món quà mà nếu được phép làm, Đấng sẽ khiến họ trở nên con cái đích thực trong Đức Chúa Con
6. Đáp Ca: Thánh Vịnh 104
Lạy Thiên Chúa thương xót và quan phòng, Đấng đã tạo ra sự hài hòa kỳ diệu của vũ trụ và Đấng đã đặt để loài người trong ấy như “vị đại diện” của Người, chúng ta hãy ca tụng Người với bài Thánh Vịnh:
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!
Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt,
cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang!
Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn trướng,
điện cao vời, dựng trên khối nước cõi thanh không.
Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió.
Sứ giả Ngài: làm gió bốn phương,
nô bộc Chúa: lửa hồng muôn ngọn.
Chúa lập địa cầu trên nền vững,
khôn chuyển lay muôn thuở muôn đời!
Áo vực thẳm choàng lên trái đất,
khối nước nguồn tụ lại đỉnh non cao.
Nghe tiếng Ngài doạ nạt, chúng đồng loạt chạy dài;
sấm Ngài mới rền vang, chúng kinh hoàng trốn thoát,
băng qua núi qua đồi, chảy xuôi ra đồng nội
về nơi Chúa đặt cho.
Ngài vạch đường ranh giới ngăn cản chúng vượt qua,
không còn cho trở lại dâng lên ngập địa cầu.
Chúa khơi nguồn: suối tuôn thác đổ,
giữa núi đồi, lượn khúc quanh co,
đem nước uống cho loài dã thú,
bầy ngựa hoang đang khát được thoả thuê.
Bên dòng suối, chim trời làm tổ,
dưới lá cành cất giọng líu lo.
Từ cao thẳm, Chúa đổ mưa xuống núi,
đất chứa chan phước lộc của Ngài.
Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc,
làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng.
Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh,
chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người,
xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi,
nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ.
Hương bá Li-băng, những cây CHÚA đã trồng,
được tràn trề nhựa sống.
Bầy chim tước rủ nhau làm ổ,
hạc bay về xây tổ ngọn cao.
Núi chon von, loài sơn dương tìm đến,
hốc đá sâu, giống ngân thử ẩn mình.
Chúa đặt vầng trăng để đo thời tiết,
dạy mặt trời biết lặn đúng thời gian.
Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối,
chốn rừng sâu, muông thú tung hoành.
Tiếng sư tử gầm lên vang dội,
chúng săn mồi, gào xin Chúa cho ăn.
Ánh dương lên, chúng bảo nhau về,
tìm hang hốc, chui vào nằm nghỉ.
Đến lượt con người ra đi làm lụng,
những mải mê tới lúc chiều tà.
Công trình Ngài, lạy CHÚA, quả thiên hình vạn trạng,
Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan!
Những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.
Này đại dương bát ngát mênh mông,
nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng,
nơi tàu bè cỡi sóng và thủy quái tung tăng,
là vật Chúa tạo thành để làm trò tiêu khiển.
Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa
đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn.
Ngài ban xuống, chúng lượm về,
Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước.
Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi;
lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.
Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới,
là chúng được dựng nên,
và Ngài đổi mới mặt đất này.
Vinh hiển CHÚA, nguyện muôn năm tồn tại,
công trình CHÚA làm Chúa được hân hoan!
Chúa nhìn đất thấp, đất sợ run lẩy bẩy,
Người chạm núi cao, núi toả khói mịt mù.
Suốt cuộc đời, tôi sẽ ca mừng CHÚA,
sống ngày nào, xin đàn hát kính Thiên Chúa của tôi.
Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả,
đối với tôi, niềm vui là chính CHÚA.
Ước gì tội nhân phải biệt tích cõi đời,
bọn bất lương sạch bóng chẳng còn ai.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
7. Lời nguyện kết
Lạy Chúa Cha tốt lành và thánh thiện, tình yêu của Cha đã làm cho chúng con trở thành anh chị em và thúc giục chúng con đến quây quần trong Hội Thánh của Cha để ca tụng với đời sống mầu nhiệm của sự hiệp thông. Chúa kêu gọi chúng con để chia xẻ chiếc bánh, hằng sống và muôn đời, Chúa đã ban cho chúng con từ trời. Xin Chúa hãy giúp chúng con cũng biết cách bẻ bánh, trong tình yêu của Đức Kitô, chiếc bánh trần thế của chúng con, để cơn đói cơ thể và tinh thần của chúng con có thể được no thỏa. Amen.