Sinh ra tại giáo phận Parma, Albêtô gia nhập hội kinh sĩ Mortara. “Một con người xuất chúng trong đời sống, trí tuệ và danh tiếng”, tác giả cuốn Gesta Innocentii III đã nhận xét về Albêtô như thế. Giám mục Albêtô coi sóc giáo phận Cercelli 20 năm và thường xuyên được các giáo hoàng giao cho giải quyết các sứ vụ ngoại giao nhạy cảm ở miền Bắc Ý. Ngài đã viết Quy Luật cho nhóm Humiliati. Đức cha Albêtô đặt chân đến Đất Thánh vào năm 1206 trong vai trò đặc sứ thúc đẩy hòa giải giữa các quan chức phong kiến Kitô giáo trong vùng. Tiếc thay, Đức cha Albêtô đã bị ám sát trong một cuộc rước ở Nhà Thờ Thánh Giá ở Acrê ngày 14 tháng Chín năm 1214.
Có lẽ tu luật Thánh Albêtô được ít người biết đến nhất trong các bản tu luật thời trung cổ. Thánh Albêtô bắt đầu bản luật bằng những lời sau đây: “Có nhiều cách thế khác nhau, các Thánh Phụ đã vạch ra để theo Đức Kitô và phụng sự Người cách trung tín với một tâm hồn trong sạch và một lương tâm ngay thẳng”. “Theo Đức Kitô” ở đây nhất định mang một ý nghĩa đặc biệt đối với những người đang cư ngụ ở Đất Thánh, theo nghĩa đen của cụm từ thì họ là những người thực sự lần theo dấu chân của Đức Kitô trên mặt đất này và sống niềm tin tỉnh thức ngay trên quê hương của Chúa.
Bản Thể Lệ Sống (Formula vitae) do Đức Thượng Phụ soạn mang âm hưởng nếp sống của các đan sĩ phương Đông trong các cư sở tại Palestine.[1] Các ẩn sĩ tuân phục bề trên, còn tương quan giữa họ với nhau thì không thấy xác định cụ thể. Đây là mối tương quan lỏng lẻo dựa trên thái độ tôn trọng của các chủ thể (ch. 18) và dựa trên cung cách phục vụ của bề trên (ch. 17). Mỗi ẩn sĩ có một hang động tách biệt với người khác (ch. 3) là nơi họ cư ngụ để suy gẫm Luật Chúa đêm ngày và tỉnh thức cầu nguyện (ch. 7). Những việc đền tội được quy định bao gồm ăn chay và cầu nguyện (ch. 12 và ch. 16). Các ẩn sĩ quy tụ lại với nhau trong nhà nguyện ở giữa các hang để cử hành Thánh Lễ; nên nhớ thời trung cổ, các ẩn sĩ Đông phương chỉ gặp nhau một lần một tuần, vào thứ Bảy hoặc Chúa Nhật, để cử hành Thánh Lễ và được hegumenos[2] hướng dẫn.
Các ẩn sĩ núi Cát Minh dường như không cử hành kinh thần vụ.[3] Đối với một ẩn sĩ núi Cát Minh thì Sách Thánh Vịnh dành cho ẩn sĩ được xem là đủ rồi, và người ẩn sĩ đó thuộc lòng các Thánh Vịnh.
Việc cầu nguyện liên lỉ của nếp sống ẩn tu kinh điển nay được thêm vào hai yếu tố khác: đó là sự khó nghèo và lao động tay chân để có nguồn lương thực hằng ngày (ch. 9 và 15). Chương 14 mô tả áo giáp tâm linh của người chiến sĩ Kitô giáo (militia Christiana) và việc giáp mặt tay đôi giữa các ẩn sĩ và ma quỷ trong sa mạc cô tịch. Đoạn này, đoạn phác họa cuộc chiến Kitô giáo theo ngôn ngữ và phong cách hiệp sĩ, tạo nên nỗi chua xót khi chúng ta suy gẫm nội dung mà nó chuyển tải đến những người lúc bấy giờ đang phải sống dưới bóng tối của gươm giáo và giết chóc.
Bản luật không đả động gì đến quy định về tu phục nhưng từ những bức họa tay chúng ta biết đó là bộ áo dòng dệt bằng len không nhuộm; bao gồm một áo thụng dài (tunic) có dây thắt lưng, Áo Đức Bà và mũ trùm đầu, bên ngoài cùng còn có áo choàng với bảy đường kẻ sọc trắng đen xen lẫn nhau theo chiều thẳng đứng.[4]
Theo trình thuật của một khách hành hương người Pháp viết vào khoảng năm 1231, chúng ta biết thêm là nhà nguyện của các ẩn sĩ này được bố trí ở giữa các hang, đúng như Luật quy định, và được thánh hiến cho Đức Trinh Nữ. “Trên sườn núi này là nơi rất đẹp và trong lành, có một ngôi nhà thờ nhỏ của Đức Mẹ.” Theo thời gian, ẩn sĩ núi Cát Minh được biết như “các anh em Đức Bà núi Cát Minh”. Tước hiệu này xuất hiện trong các văn thư Giáo Hoàng ít nhất là từ năm 1252, rất có thể tước hiệu này đã được dùng phổ biến từ lâu trước đó. Hạt cải nhỏ bé này dần dần phát triển thành cây “lòng sùng kính Đức Mẹ” của nhà Dòng thật to lớn và phủ bóng khắp nơi.
[1] “The laurae” trong ngữ cảnh này dùng để chỉ nơi các đan sĩ hoặc ẩn sĩ thời xưa cư ngụ, vừa riêng biệt vừa thông kết với nhau.
[2] “Hegumenos” được hiểu như người đứng đầu các ẩn sĩ. Vị này có vai trò tương đương với một Đan Viện Phụ hay Đan Viện Trưởng trong cơ cấu đan tu, hoăc nôm na như một tu viện trưởng trong các tổ chức tu trì ngày nay.
[3] Chúng ta đang nói đến giai đoạn nguyên thủy khi Dòng Cát Minh còn đang trong tiến trình hình thành. Hình thức Kinh Phụng Vụ vẫn còn xa lạ đối với các tổ chức tu trì mới thành lập lúc bấy giờ như Dòng Cát Minh, Dòng Đa Minh, Dòng Phanxicô.
[4] Có một số tác phẩm hội họa mô tả các tu sĩ Cát Minh tiên khởi trong tu phục với áo choàng trắng và sọc ngang màu đen. Trong khi đó nguyên bản tiếng Anh ghi rõ: “a mantle of seven white and dark vertical stripes.”