Sự sống lại và sứ vụ
“Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”
Mt 28:16-20
- Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
- Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Phần Phụng vụ ngày lễ Chúa Ba Ngôi dùng những câu cuối của Tin Mừng Mátthêu (Mt 28:16-20). Trong chương đầu của sách Tin Mừng, Mátthêu giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Êmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1:23). Tại đây, trong câu cuối cùng của sách Tin Mừng của ông, Chúa Giêsu thông tri cùng một sự thật: “Thầy ở cùng với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Đây là trung tâm điểm đức tin của các cộng đoàn trong thập niên tám mươi (sau Công Nguyên), và tiếp tục là trung tâm điểm của đức tin chúng ta. Chúa Giêsu là Đấng Êmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Đây cũng là quan điểm cho việc tôn sùng của chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi.
b) Phúc Âm:
16 Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu chỉ trước. 17 Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. 18 Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. 19 Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần; 20 giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
- Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
- Một vài câu hỏi gợi ý:
Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân
a) Điều gì trong đoạn Tin Mừng đã tạo sự chú ý của bạn nhất? Tại sao?
b) Đoạn Tin Mừng này truyền đạt đến chúng ta hình ảnh gì về Chúa Giêsu?
c) Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được trình bày trong đoạn Phúc Âm như thế nào?
d) Trong sách Tông Đồ Công Vụ đoạn 1:5, Chúa Giêsu công bố phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Rồi cùng sách ấy, trong đoạn 2:38, thánh Phêrô nói về phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Ở đây, Phúc Âm lại nói về một phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Đâu là sự khác biệt giữa ba điều khẳng định này, hay là chúng cùng nói về một phép rửa?
e) Một cách chính xác, sứ vụ mà Chúa Giêsu giao phó cho Nhóm Mười Một là gì? Sứ vụ của các cộng đoàn chúng ta ngày nay là những môn đệ của Chúa Giêsu là gì? Theo như văn bản, chúng ta tìm thấy ở đâu sức mạnh và lòng can đảm để hoàn thành sứ vụ của chúng ta?
- Chìa khóa của bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề.
i) Bối cảnh:
Tác giả Mátthêu viết cho các cộng đoàn Do-Thái Kitô hữu ở Syria và Palestine. Họ bị những người anh em Do Thái chỉ trích rằng Chúa Giêsu không thể là Đấng Cứu Thế đã được giao hứa, và vì thế cách sống của họ là sai. Mátthêu cố gắng duy trì đức tin của họ và giúp họ hiểu rằng Chúa Giêsu đích thực là Đấng Cứu Thế, Người đã đến để làm viên mãn lời hứa của Thiên Chúa đã hứa thuở xưa qua các Tiên Tri. Bản tóm tắt thông điệp của Mátthêu gửi đến các cộng đoàn được tìm thấy trong lời hứa cuối cùng của Chúa Giêsu cho các môn đệ, chủ đề bài suy gẫm của chúng ta trong Chúa Nhật lễ Chúa Ba Ngôi tuần này.
ii) Lời bình giải về đoạn Tin Mừng:
* Mt 28:16: Lần hiện ra đầu tiên và hiện ra cuối cùng của Chúa Giêsu với Nhóm Mười Một môn đệ.
Đầu tiên, Chúa Giêsu hiện ra với những người phụ nữ (Mt 2:9), và qua các bà, nói với các ông rằng họ phải đi về Galilêa để gặp Người một lần nữa. Galilêa là nơi mà các ông lãnh nhận lời gọi lần đầu tiên (Mt 4:12,18) và sứ vụ chính thức đầu tiên của họ (Mt 10:1-16). Và cũng tại xứ Galilêa ấy, mọi việc sẽ bắt đầu lại: một lời gọi mới và một sứ vụ mới! Như trong Cựu Ước, những biến cố quan trọng luôn xảy ra trên núi, Núi của Thiên Chúa.
* Mt 28:17: Có kẻ còn hoài nghi.
Khi các môn đệ trông thấy Chúa Giêsu, họ phủ phục trước mặt Người, thái độ của những người tin và đón chào sự hiện diện của Thiên Chúa, cho dù có thể ngạc nhiên và vượt quá khả năng hiểu biết của con người. Vì vậy, có kẻ hoài nghi. Bốn sách Tin Mừng nhấn mạnh sự hoài nghi và ngờ vực của các môn đệ khi phải đối mặt với sự sống lại của Chúa Giêsu (Mt 28:17; Mk 16:11,13-14; Lc 24:11,37-38; Ga 20:25). Những câu Tin Mừng này để cho thấy rằng các tông đồ không phải là ngây thơ và khuyến khích các cộng đoàn của những thập niên năm tám mươi (sau Công Nguyên) mà vẫn còn có những nghi ngờ.
* Mt 28:18: Quyền năng của Chúa Giêsu.
“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”. Đây là lời công bố long trọng rất giống như lời khẳng định khác: “Cha Ta đã giao phó mọi sự cho Ta” (Mt 11:27). Có những lời khẳng định tương tự khác của Chúa Giêsu trong sách Tin Mừng Gioan: “Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người” (Ga 13:3) và “Tất cả những gì của con đều là của Cha, và tất cả những gì của Cha đều là của con” (Ga 17:10). Cùng niềm xác tín này của đức tin trong Chúa Giêsu xuất hiện trong các Thánh Thi được duy trì trong các thư của thánh Phaolô (Êp 1:3-14; Pl 2:6-11; Cl 1:15-20). Sự viên mãn của thần tính được thể hiện nơi Chúa Giêsu (Cl 1:19). Quyền năng này của Chúa Giêsu, phát sinh từ sự hiệp nhất của Người với Chúa Cha, là căn bản của sứ vụ mà các môn đệ sắp sửa tiếp nhận và cũng là của đức tin chúng ta vào Thiên Chúa Ba Ngôi.
* Mt 28:19-20a: Tam sứ vụ.
Chúa Giêsu trao cho các môn đệ một tam sứ vụ: (1) đi giảng dạy muôn dân; (2) làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần; (3) giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Người đã truyền cho các ông.
a) Trở thành một môn đệ: người môn đệ sống với thầy mình và do đó học được từ cuộc sống hàng ngày với nhau. Người môn đệ tạo nên cộng đoàn với thầy mình và đi theo người, tìm cách bắt chước theo cách sống của thầy mình và sống cùng với thầy. Người môn đệ là người không đặt giá trị tuyệt đối trên lối suy nghĩ của mình, mà là luôn mở lòng để học hỏi. Giống như “người Tôi Tớ của Thiên Chúa”, người môn đệ phải lắng tai nghe những gì Thiên Chúa nói (Is 50:4).
b) Làm phép rửa nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần: Tin Mừng của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang lại cho chúng ta là sự mặc khải rằng Thiên Chúa là Cha và do đó tất cả chúng ta đều là anh chị em. Chúa Giêsu đã sống và thu thập được kinh nghiệm mới này về Thiên Chúa cho chúng ta qua cái chết và sự sống lại của Người. Đây là Chúa Thánh Thần mới mà Người đã truyền bá cho các môn đệ của Người trong ngày lễ Ngũ Tuần. Trong thời ấy, chịu phép rửa nhân danh một ai đó có nghĩa là để thừa nhận cách công khai lời cam kết tuân giữ sứ điệp đã được công bố. Vì thế, chịu phép rửa nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần mang cùng ý nghĩa như được chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu (Cv 2:38) và cũng giống như chịu phép rửa trong Chúa Thánh Thần (Cv 1:5). Nó có nghĩa và vẫn còn mang ý nghĩa là thừa nhận công khai lời cam kết sống theo Tin Mừng mà Chúa Giêsu đem lại: mặc khải qua huynh đệ ngôn sứ rằng Thiên Chúa là Cha và cố gắng vượt qua những chia rẽ và ly tán trong loài người, và khẳng định rằng tất cả đều là con cái Thiên Chúa.
c) Giảng dạy tuân giữ mọi điều mà Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta: Chúng ta không giảng dạy các giáo lý mới cũng không giảng dạy các học thuyết của chúng ta, nhưng chúng ta mặc khải khuôn mặt của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta. Từ sự mặc khải này mà dẫn đến tất cả các giáo lý được truyền đến chúng ta qua các thánh tông đồ.
* Mt 28: 20b: Thiên Chúa ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Đây là lời hứa tuyệt vời, sự tổng hợp của tất cả những gì đã được mặc khải từ thuở ban đầu. Đây là lời tóm tắt về Danh Thiên Chúa, bản tóm tắt về toàn bộ Cựu Ước, về tất cả những lời hứa, về tất cả các mong muốn của trái tim nhân loại. Nó là lời tóm tắt cuối cùng của Tin Mừng Thiên Chúa truyền đến chúng ta qua Tin Mừng Mátthêu.
iii) Lịch sử về sự mặc khải Danh Thiên Chúa, Một Chúa và Ba Ngôi:
Khi người ta nghe tên lần đầu tiên, đó chỉ là một cái tên. Khi chúng ta càng sống với một người thì cái tên càng trở thành một tổng hợp của người ấy. Chúng ta càng sống càng lâu với một người, thì cái tên càng có ý nghĩa và giá trị hơn. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa có rất nhiều tên và danh xưng để bày tỏ Người có ý gì và Người có nghĩa gì cho chúng ta. Tên riêng của Thiên Chúa là YHWH (Gia-Vê). Chúng ta đã gặp tên này trong bài tường thuật thứ hai của sự sáng tạo trong sách Sáng Thế Ký (St 2:4). Ý nghĩa sâu xa của tên này (kết quả của việc sống chung lâu dài qua hằng thế kỷ, cũng đã đi qua “đêm đen” của cuộc khủng hoảng lưu đày ở Babylon) được mô tả trong sách Xuất Hành vào dịp Môisen được gọi (Xh 3:7-15). Sống với Thiên Chúa qua hằng thế kỷ, tên này của Thiên Chúa được ưa chuộng với ý nghĩa và chiều sâu.
Thiên Chúa phán với Môisen: “Hãy đi và giải phóng dân Ta” (xem Xh 3:10). Ông Môisen đã sợ hãi và tự biện minh bằng cách giả vờ khiêm tốn: “Con là ai?” (Xh 3:11). Thiên Chúa đáp: “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3:12). Mặc dù ông biết rằng Thiên Chúa sẽ ở với ông trong sứ mạng giải thoát dân Do Thái khỏi sự áp bức của Pharaô, Môisen cố gắng thoái thác lần nữa, ông hỏi xin biết tên của Thiên Chúa. Thiên Chúa trả lời ông bằng cách chỉ đơn giản tái khẳng định những gì Người đã nói: “Ta là Đấng Hằng Hữu”. Nói cách khác, Thiên Chúa nói rằng Người chắc chắn ở với ông và ông không thể nghi ngờ điều này. Văn bản sau đó tiếp tục: “Ngươi nói với con cái Israel thế này: Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em!” Văn bản sau đó kết luận: “Đó là danh Ta đến muôn thuở: đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia” (Xh 3:14-15).
Trong văn bản ngắn gọn này, thuộc về tín lý sâu sắc, biểu lộ niềm xác tín sâu xa nhất của đức tin của dân Thiên Chúa: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người là Đấng Êmanuel, một Đấng Hiện Diện thân mật, thân thiện và cởi mở. Tất cả điều này được chứa trong bốn chữ cái của tên YHWH, mà chúng ta phát âm là Đức Gia-Vê: Đấng ở giữa chúng ta. Đây là điều chắc chắn mà Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ trong lời hứa cuối cùng của Người trên núi: “Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Kinh Thánh cho phép chúng ta nghi ngờ tất cả mọi thứ ngoại trừ một điều: Danh hiệu của Thiên Chúa, đó là, sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta được diễn tả trong tên Đức Gia-Vê: “Người ngự ở giữa chúng ta”. Chỉ trong Cựu Ước thôi, tên Đấng Gia-Vê xuất hiện hơn 7000 lần! Đó là ngọn tim đèn của cây nến mà xung quanh tập hợp lại sáp của các câu chuyện.
Thảm kịch đã xảy ra (và vẫn còn tiếp diễn) vào những thế kỷ sau đó trong thời kỳ lưu vong ở Babylon, chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa đạo đức và thói nệ nghi thức dần dần mô tả khuôn mặt sống động, thân thiện, gần gũi và yêu thương như là một hình ảnh cứng nhắc và nghiêm khắc, không đáng được treo trên các bức tường của Thánh Kinh, một hình ảnh mà dấy lên sự sợ hãi và tạo ra khoảng cách giữa Thiên Chúa và dân của Người. Vì thế, trong những thế kỷ trước Chúa Kitô, danh thánh Gia-Vê không được phép kêu lên, thay vào đó chữ Adonai được dùng đến, dịch từ chữ Kyrios, có nghĩa là Chúa. Một giáo phái tập trung vào việc tuân giữ lề luật, một giáo phái tập trung vào đền thờ Giêrusalem và một hệ thống bài ngoại cực đoan, đã tạo ra một chế độ nô lệ mới bóp nghẹt kinh nghiệm về mầu nhiệm và ngăn trở sự liên lạc với Thiên Chúa hằng sống. Danh Thánh Chúa cần phải được giống như tấm kính trong suốt mặc khải Tin Mừng khuôn mặt thân thiện và đẹp đẽ của Thiên Chúa, đã trở thành một tấm gương chỉ phản ảnh bộ mặt của những ai nhìn vào nó. Một sự lừa dối bi thảm của sự tự-chiêm-niệm! Chúng không còn uống nước tại nguồn mạch, mà uống nước đóng chai bởi các luật sĩ. Cho đến ngày nay, chúng ta tiếp tục uống nước đựng trong chai, thay vì uống nước từ nguồn suối.
Bởi cái chết và sự sống lại của Người, Chúa Giêsu đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta (Cl 2:14), đã phá vỡ tấm gương tự chiêm ngưỡng sùng bái thần tượng và mở ra một cửa sổ mới nơi mà Thiên Chúa cho thấy thánh nhan Ngài và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Trích dẫn một bài ca vịnh của cộng đoàn, Thánh Phaolô nói trong thư gửi cho tín hữu Philípphê: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: ‘Đức Giêsu Kitô là Chúa’” (Pl 2:9-11). Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô đã kết thúc bài giảng đầu tiên của ông bằng cách tỏ lộ cho biết những kinh nghiệm khám phá về sự sống lại có ý nghĩa trọng đại với ông ra sao: “Hãy nói cho muôn dân biết: Thiên Chúa đã ủy thác Chúa Giêsu Kitô”. Đức Giêsu Đấng đã chết và đã sống lại, là sự mặc khải mà Thiên Chúa, giống như mọi khi, là và tiếp tục là Đức Chúa Gia-Vê (Adonai, Kyrios, Chúa), sự hiện hữu gần gũi, thân thiết và cởi mở ở giữa dân của Người, Đấng chiến thắng mọi trở ngại, ngay cả cái chết. Với sự xuất hiện của Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng dường như xa lạ và nghiêm khắc, đạt được các điểm đặc trưng của Chúa Cha tốt lành, đầy lòng nhân từ. Lạy Cha! Cha của chúng con! Đối với những người Kitô hữu chúng ta, điều quan trọng nhất không phải là để tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, mà là để làm chứng rằng Thiên Chúa là Đức Giêsu! Thiên Chúa tỏ mình ra trong Đức Giêsu. Chúa Giêsu là chìa khóa dẫn đến bài đọc mới của Cựu Ước. Người là tên gọi mới của Thiên Chúa.
Điều mặc khải mới này về danh thánh Thiên Chúa trong Đức Giêsu là hoa trái của món quà tình yêu hoàn toàn cho không của Thiên Chúa, của lòng trung thành của Người với Danh Thánh Người. Lòng trung thành này cũng có thể là của chúng ta nữa, nhờ sự vâng phục hoàn toàn và triệt để của Chúa Giêsu: “Vâng lời cho đến chết, chết trên thập giá” (Pl 2:8). Chúa Giêsu đã tự xác nhận Người hoàn toàn vâng theo ý Thiên Chúa. Chúa nói: “Những gì Ta nói, thì Ta nói đúng như Chúa Cha đã nói với Ta” (Ga 12:50). “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4:34). Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu mặc khải minh bạch hoàn toàn về Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha!” (Ga 14:9). Ở nơi Người là “sự viên mãn của Thiên Chúa” (Cl 1:19). “Chúa Cha và Ta là một” (Ga 10:30). Sự vâng lời như thế không phải là dễ dàng. Chúa Giêsu đã trải qua những thời khắc khó khăn khi Người đã kêu lên: “Cha ơi, xin cất chén này xa con!” (Mc 14:36). Như trong thư gửi tín hữu Do Thái đã viết: “Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (Dt 5:7). Người đã vượt qua bằng cách cầu nguyện. Đó là lý do tại sao Người đã trở thành sự mặc khải và biểu lộ toàn vẹn của Danh Thánh, về Danh Thánh Chúa có ý nghĩa gì cho chúng ta. Đức vâng lời của Chúa Giêsu không phải là một kỷ luật mà là một sự tiên tri. Đó là một hành động mặc khải về Chúa Cha. Qua sự vâng lời, những xiềng xích đã bị bẻ gãy và tấm màn che khuôn mặt Thiên Chúa đã được tháo gỡ. Một phương cách mới để Thiên Chúa được mở ra với chúng ta. Người đã dành cho chúng ta ân sủng của Chúa Thánh Thần khi chúng ta cầu xin với Chúa Cha nhân danh Chúa Thánh Thần trong lời cầu nguyện (Lc 11:13). Chúa Thánh Thần là dòng nước hằng sống được dành cho chúng ta bởi sự sống lại của Người (Ga 7:39). Thông qua Chúa Thánh Thần mà Người giảng dạy chúng ta, mặc khải khuôn mặt của Chúa Cha (Ga 14:26; 16:12-13).
- Thánh Vịnh 145 (144)
Đức Giêsu thiết lập Nước Trời
Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con,
con nguyện tán dương Chúa
và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời.
Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa
và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời.
CHÚA thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng.
Người cao cả khôn dò khôn thấu.
Đời nọ tới đời kia, thiên hạ đề cao sự nghiệp Chúa
và truyền tụng những chiến công của Ngài,
tuyên bố Ngài oai phong vinh hiển,
kể lại rằng: Ngài thực hiện những kỳ công,
bảo cho nhau: sức mạnh Ngài đáng sợ,
loan truyền rằng: Ngài cao cả lắm thay!
Nhắc nhở luôn: Ngài nhân ái vô cùng,
hoan hô Ngài công chính.
CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương.
CHÚA nhân ái đối với mọi người,
tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.
Lạy CHÚA, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ,
kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài,
nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển,
xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng,
để nhân loại được tường những chiến công của Chúa,
và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.
Triều đại Ngài: thiên niên vĩnh cửu,
vương quyền Ngài vạn đại trường tồn.
Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán,
đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.
Ai quỵ ngã, CHÚA đều nâng dậy,
kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên.
Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa,
và chính Ngài đúng bữa cho ăn.
Khi Ngài rộng mở tay ban,
là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê.
CHÚA công minh trong mọi đường lối Chúa,
đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.
CHÚA gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa,
mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.
Kẻ kính sợ Người, Người cho toại nguyện,
nghe tiếng họ kêu than, và ban ơn giải cứu,
CHÚA gìn giữ mọi kẻ mến yêu Người,
nhưng lại diệt trừ hết bọn ác nhân.
Môi miệng tôi, hãy dâng lời ca ngợi CHÚA,
chúng sinh hết thảy, nào chúc tụng Thánh Danh
đến muôn thuở muôn đời!
- Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.