Chúa Rửa Chân Cho Các Môn Đệ
Ga 13:1-15
1. Bài Đọc – Lectio
a) Lời nguyện mở đầu
“Lạy Chúa, khi Chúa phán, hư không trở nên sinh động: bụi tro trở thành người sống, hoang địa trở nên vùng trù phú… Khi con chuẩn bị để cầu nguyện, con cảm thấy khô khan, con không biết phải nói gì. Thật rõ ràng, con không ở trong sự hòa hợp với ý của Chúa, môi miệng con không đồng giai điệu với tâm hồn con, trái tim con không nỗ lực để được đồng điệu với trái tim Chúa. Xin Chúa hãy đổi mới trái tim con, xin hãy thanh tẩy miệng lưỡi con để con có thể thưa chuyện với Chúa như Chúa muốn con làm điều ấy, để con có thể nói với những người khác như Chúa muốn, để con có thể nói với chính mình, với nội tâm của con, như Chúa muốn.”
(L. Renna)
b) Bài đọc Tin Mừng
1 Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha. Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. 2 Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariốt, con của Simon, ý định nộp Người. 3 Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. 4 Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng; 5 rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. 6 Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” 7 Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu.” 8 Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con.” Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy.” 9 Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa.” 10 Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu.” 11 Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: ‘Không phải tất cả các con đều sạch đâu.’” 12 Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? 13 Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. 14 Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. 15 Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con.”
c) Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Trong lắng nghe yêu thương, lời nói không cần thiết, bởi vì sự im lặng cũng là cách nói và thông tri về tình yêu.
2. Suy gẫm Lời Chúa – Meditatio
a) Lời mở đầu Lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu
Đoạn Tin Mừng hôm nay được lồng trong toàn bộ bản văn bao gồm các chương 13 đến chương 17. Vào lúc đầu, chúng ta có khung cảnh của Bữa Tiệc Ly nơi Chúa Giêsu chia sẻ với các môn đệ, trong đó Người đã hoàn thành cử chỉ rửa chân (Ga 13:1-30). Sau đó, Chúa Giêsu xen đan một cuộc đối thoại dài chia tay với các môn đệ (Ga 13:31 – 14:31). Các chương 15-17 có nhiệm vụ bổ túc sâu xa cho bài giảng của Chúa trước đó. Ngay sau đó, Chúa Giêsu bị bắt giữ (Ga 18:1-11). Dù sao chăng nữa, những sự việc được thuật lại trong các câu 13:17-26 được nối kết với câu 13:1 với Lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu. Thật là thú vị khi chúng ta để ý đến lời chú thích cuối cùng này: từ câu 12:1 Lễ Vượt Qua không còn được gọi là lễ Vượt Qua của người Do Thái, mà là của Chúa Giêsu. Từ bây giờ, Người, Chiên Thiên Chúa, là Đấng sẽ giải thoát con người khỏi tội lỗi. Lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu là việc có mục đích giải thoát loài người: một cuộc xuất hành mới cho phép đi từ bóng tối đến ánh sáng (Ga 8:12), và sẽ ban sự sống và lễ hội trong nhân loại (Ga 7:37).
Chúa Giêsu biết rằng Người sắp sửa kết thúc cuộc hành trình của mình về cùng Chúa Cha và, vì thế Người sắp sửa kết thúc cuộc vượt qua dứt khoát và riêng tư của Người. Một sự ra đi như thế, về cùng Chúa Cha, xảy ra qua cây Thập Giá, thời điểm chính trong đó Chúa Giêsu sẽ thí mạng sống của Người vì lợi ích của nhân loại.
Nó đánh động người đọc khi nhận thức được phương cách Thánh Sử Gioan giới thiệu con người Chúa Giêsu thật rõ ràng, trong khi Chúa nhận thức được về những sự kiện cuối cùng trong đời của Chúa, và do đó, về sứ vụ của Người. Vì vậy, để khẳng định rằng Chúa Giêsu không hề bị ngã lòng hoặc bị chế ngự bởi các sự kiện đe dọa mạng sống của mình, mà trái lại Chúa sẵn sàng dâng hiến mạng sống mình. Trước đó, Thánh Sử đã cho thấy rằng giờ của Chúa chưa đến; nhưng bây giờ trong việc rửa chân cho các môn đệ, Chúa nói Người biết rằng giờ của Người đã gần kề. Một nhận thức như thế là căn bản sự diễn đạt của thánh Gioan: “Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng” (câu 1). Tình yêu dành cho “những kẻ thuộc về Người”, cho những ai hình thành cộng đoàn mới, đã được hiển nhiên trong khi Người đang sống với họ, nhưng nó sẽ tỏa sáng một cách cao độ trong cái chết của Người. Chúa Giêsu biểu lộ tình yêu qua cử chỉ rửa chân, trong đó có giá trị biểu trưng của nó, cho thấy một tình yêu liên tục được thể hiện qua sự phục vụ.
b) Việc rửa chân
Chúa Giêsu tại một bữa ăn tối thông thường với các môn đệ của mình. Người hoàn toàn ý thức về sứ vụ mà Chúa Cha trao phó cho Người: Việc cứu rỗi nhân loại tùy thuộc vào Người. Với một nhận thức như vậy, Chúa muốn chỉ bảo cho “những kẻ thuộc về Người”, qua việc rửa chân, cách mà công cuộc cứu độ của Chúa Cha được thực hiện và để cho biết trong cử chỉ như là một sự dâng mạng sống của mình cho sự cứu rỗi nhân loại. Ý muốn của Chúa Giêsu là loài người phải được cứu rỗi, và sự mong muốn khát khao khiến Người từ bỏ mạng sống của mình và dâng hiến. Chúa Giêsu nhận thức được rằng Chúa Cha cho phép Người hoàn toàn tự do hành động.
Ngoài ra, Chúa Giêsu biết rằng nguồn gốc và mục tiêu thật cho cuộc hành trình của Người là Thiên Chúa; Chúa biết rằng cái chết của mình trên Thập Giá, sự biểu lộ tối đa tình yêu của Người, là giây phút cuối cùng cuộc hành trình cứu độ của mình. Cái chết của Chúa là một “cuộc ra đi”; đó là mức tột đỉnh chiến thắng sự chết của Người. Trong việc dâng hiến mạng sống của mình, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta sự hiện diện của Thiên Chúa như sự viên mãn của cuộc sống và khỏi phải hư mất.
Với ý thức đầy đủ về căn tính và sự tự do hoàn toàn của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng thực hiện cử chỉ tuyệt vời và khiêm nhường là rửa chân. Một cử chỉ của tình yêu như thế được diễn tả với rất nhiều động từ (tám) làm cho cảnh trở nên mê hoặc và tràn đầy ý nghĩa. Tác giả Phúc Âm trong việc trình bày cử chỉ cuối cùng của Chúa Giêsu đối với những kẻ thuộc về Người, dùng con số hùng biện này của các động từ tích tụ mà không lặp đi lặp lại để một cử chỉ như vậy còn mãi sâu đậm trong tâm trí các môn đệ và mỗi người đọc và để cho một điều răn mãi luôn được ghi nhớ, không bao giờ bị quên lãng. Cử chỉ được Chúa Giêsu thể hiện có ý định cho thấy rằng tình yêu thật sự được biểu lộ qua các hành động phục vụ cụ thể. Chúa Giêsu tự cởi áo và cột ngang thắt lưng một cái khăn hoặc tạp dề, biểu tượng của sự phục dịch. Một cách chính xác hơn, Chúa Giêsu cởi áo của Người là một cách diễn tả ý nghĩa trọng đại của quà tặng mạng sống. Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ điều giảng dạy gì qua cử chỉ này? Chúa cho họ thấy rằng tình yêu được bày tỏ qua việc phục vụ, trong việc dâng hiến mạng sống mình cho người khác như Chúa đã làm.
Vào thời Chúa Giêsu, việc rửa chân được xem như là một cử chỉ biểu lộ lòng hiếu khách và sự chào mừng đối với các người khách. Thông thường, việc này được làm bởi một người nô lệ hoặc bởi người vợ, coi như công việc của người vợ và cũng như của con gái đối với cha của họ. Bên cạnh đó, theo tục lệ nghi thức rửa chân phải được thực hiện trước khi ngồi vào bàn ăn chứ không phải đang trong bữa ăn. Việc gài vào hành động của Chúa Giêsu như thế có ý nhấn mạnh đến hành động của Chúa rất đặc thù hoặc có ý nghĩa là dường bao.
Và vì thế, Chúa Giêsu quỳ xuống để rửa chân cho các môn đệ của Người. Việc dùng đi dùng lại cái khăn mà Chúa Giêsu thắt ngang lưng nhấn mạnh đến thái độ của việc phục vụ là một nhân cách thường trực của Chúa Giêsu. Trong thực tế, sau khi làm xong việc rửa chân, Chúa Giêsu sẽ không cởi bỏ cái khăn mà Người đã dùng nó như cái tạp dề. Một chi tiết như thế có ý muốn nhấn mạnh rằng tình-yêu-phục-vụ không kết thúc với cái chết của Người. Chi tiết nhỏ nhặt này cho thấy chủ đích của Tác Giả Phúc Âm muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa và tầm quan trọng của cử chỉ của Chúa Giêsu. Bằng vào việc rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu có ý cho các ông thấy tình yêu của Người, mà đó cũng là tình yêu của Chúa Cha (Ga 10:30-38). Hình ảnh Đức Giêsu mặc khải về Thiên Chúa thì thực sự gây chấn động: Người không là Đấng Tối Cao độc quyền ngự trị trên Thiên Đàng, nhưng Chúa cho thấy Người như là một tôi tớ của nhân loại để nâng cao nó lên đến mức thiêng liêng. Từ nguồn phục vụ thiêng liêng này tuôn chảy, cho cộng đoàn tín hữu, rằng sự tự do xuất phát từ tình yêu dâng hiến cho tất cả các thành viên của nó như “các chúa” (tự do) bởi vì họ là những tôi tớ. Nó cũng giống như nói rằng chỉ có sự tự do mới tạo nên tình yêu đích thực. Từ bây giờ, sự phục vụ mà các tín hữu sẽ làm cho loài người sẽ có mục đích là phục hồi lại mối quan hệ giữa loài người trong đó sự bình đẳng và tự do là một hệ quả của việc thực thi việc phục vụ đáp trả. Đức Giêsu, với cử chỉ của Người có mục đích cho thấy rằng bất kỳ sự thống trị hoặc dự định áp đặt lên con người thì trái với thái độ của Thiên Chúa là Đấng thay vào đó lại phục vụ loài người để nâng họ lên bằng với mình. Bên cạnh đó, các kỳ vọng của sự vượt trội của một người hơn một người khác không còn có bất kỳ một ý nghĩa nào, bởi vì cộng đoàn được thành lập bởi Chúa Giêsu không có bất kỳ đặc điểm của hình kim tự tháp, nhưng có những kích thước hàng ngang, trong đó mỗi người là để phục vụ cho những người khác, noi theo gương của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu.
Một cách tổng hợp, cử chỉ mà Chúa Giêsu đã làm nói lên các giá trị sau đây: tình yêu đối với anh em đòi hỏi phải được thể hiện trong sự chấp nhận huynh đệ, hiếu khách, đó là, trong sự phục vụ trường cửu.
c) Sự phản kháng của Phêrô
Phản ứng của ông Phêrô trước cử chỉ của Chúa Giêsu được thể hiện trong thái độ ngạc nhiên và phản đối. Ngoài ra còn có một thay đổi trong cách ông liên hệ với Đức Giêsu: Phêrô gọi Người là “Chúa” (Ga 13:6). Trong một danh hiệu như thế, Chúa Giêsu được công nhận là ở vị trí ưu việt hơn, thay vào đó, lại mâu thuẫn với việc “rửa chân”, đó là một hành động của một kẻ kém cỏi hơn. Sự phản đối được thể hiện một cách mạnh mẽ bởi những lời: “Lạy Thầy, Thầy muốn rửa chân cho con sao?” Trong mắt của Phêrô cử chỉ rửa chân thấp hèn này đối với ông dường như là một sự đảo ngược những giá trị quy định mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và loài người: Chúa là Thầy, còn Phêrô là phàm nhân lệ thuộc vào Chúa. Phêrô không chấp nhận sự bình đẳng mà Chúa Giêsu muốn tạo ra giữa loài người với nhau.
Để trả lời cho việc hiểu lầm như thế, Chúa Giêsu mời gọi Phêrô chấp nhận ý nghĩa việc Chúa rửa chân cho ông như là một bằng chứng cho tình yêu của Người đối với ông. Một cách chính xác hơn, Đức Giêsu muốn ban cho ông một bằng chứng cụ thể rằng Người và Chúa Cha yêu mến ông như thế nào.
Nhưng trong phản ứng của Phêrô, ông vẫn chưa muốn chịu thua: ông nhất quyết từ chối để cho Chúa Giêsu quỳ xuống rửa chân cho ông. Theo Phêrô, mỗi một người cần phải làm theo vai trò của mình, một cộng đoàn hay một xã hội dựa trên sự bình đẳng là một việc không thể có. Việc Chúa Giêsu từ bỏ ngôi vị cao quý của mình để hạ mình xuống ngang hàng với các môn đệ là điều không thể chấp nhận được. Ý tưởng về một vị Thầy như thế làm Phêrô rối trí và đưa đến việc phản đối. Không chấp nhận sự phục vụ vì tình yêu mến của Thầy mình, thì ông cũng không chấp nhận rằng Chúa chết trên thập giá cho ông (Ga 12:34; 13:37). Có thể nói rằng Phêrô vẫn còn xa vời với sự hiểu biết về tình yêu đích thực là gì, và với một chướng ngại như thế là sự ngăn trở để Chúa Giêsu có thể chỉ cho ông thấy hành động của Người.
Cùng vào lúc ấy, nếu Phêrô chưa sẵn sàng để chia sẻ những động lực của tình yêu được thể hiện trong việc phục vụ lẫn nhau, thì ông cũng không thể chia sẻ tình bạn với Chúa Giêsu và thực sự chấp nhận nguy hiểm để từ bỏ chính mình.
Nghe theo lời khuyên dạy của Chúa Giêsu: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, thì con sẽ không được dự phần với Thầy” (câu 8), Phêrô tuân theo những lời răn đe của Thầy, nhưng không chấp nhận ý nghĩa sâu xa việc làm của Chúa Giêsu. Ông cho thấy đã cởi mở hơn, sẵn sàng để Chúa rửa chân cho mình, nhưng không chỉ là chân, mà còn cả tay và đầu nữa. Có vẻ như là Phêrô dễ dàng chấp nhận cử chỉ của Chúa Giêsu như là một hành động để thanh tẩy hoặc rửa tội hơn là một sự phục vụ. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng các môn đệ đã trở nên tinh khiết (“sạch”) vào lúc họ đã chấp nhận để cho họ được hướng dẫn bởi Lời của Chúa, từ bỏ những gì thuộc về thế gian. Phêrô và các môn đệ không còn cần đến nghi thức thanh tẩy của người Do Thái nhưng bằng lòng để cho chân của họ được rửa bởi Chúa Giêsu; hay nói đúng hơn là cho phép mình được Chúa yêu thương, ban cho họ phẩm giá và sự tự do.
d) Kỷ niệm Tình yêu
Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu có ý định để cho hành động của mình có một giá trị lâu dài cho cộng đoàn của mình và đồng thời để lại đó một kỷ niệm hay một giới răn là phải luôn giữ đúng mối quan hệ anh em.
Đức Giêsu là Chúa, không phải trong chiều hướng thống trị, mà là trong chiều hướng Người truyền đạt tình yêu của Chúa Cha (Thần Khí của Người) để cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và đủ điều kiện trở nên giống Chúa Giêsu là Đấng tự do trao ban tình yêu của Người cho những kẻ thuộc về mình. Chúa Giêsu đã có ý truyền đạt một tâm tình như thế cho những kẻ thuộc về Người, một tình yêu không loại trừ bất cứ ai, ngay cả Giuđa là kẻ sắp sửa phản bội Người. Do đó, nếu các môn đệ gọi Người là Chúa, thì họ phải bắt chước giống như Người; nếu các ông coi Người là Thầy là Chúa, thì họ phải nghe lời Người.
e) Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm
– Người chỗi dậy từ bàn ăn: Bạn sống Bí Tích Thánh Thể như thế nào? Bạn có cho phép mình được cảm động bởi tác động của lửa tình yêu mà bạn nhận được không hay bạn chỉ ngồi thụ động? Bạn có phải đối diện với nguy cơ rằng Bí Tích Thánh Thể, trong đó bạn tham gia, bị lạc mất trong sự chiêm niệm Ái Kỷ, mà không dẫn đến sự cam kết của tình đoàn kết và chia sẻ không? Sự dấn thân của bạn cho công lý, cho người nghèo khó, có sẽ đến từ đức tính gặp gỡ Chúa Kitô trong Thánh Thể, từ sự quen thuộc với Người không?
– Người cởi áo khác ngoài: từ Bí Tích Thánh Thể, đi vào đời sống hằng ngày, bạn có biết cách để loại bỏ cái áo khoác lợi ích cho riêng bạn, các toan tính của bạn, các quyền lợi riêng tư của bạn để cho phép bản thân mình được hướng dẫn bởi một tình yêu chân chính đối với tha nhân không? Hay là, sau khi chịu phép Thánh Thể bạn không có khả năng rũ bỏ cái áo khoác áp đặt và kiêu căng để khoác lên mình một cái áo khoác của đơn sơ, của khó nghèo không?
– Người lấy khăn và thắt ngang lưng: đây là hình ảnh của “Giáo Hội của tạp dề”. Trong đời sống của gia đình bạn, của cộng đoàn giáo hữu của bạn, bạn có đi trên con đường của phục vụ, chia sẻ không? Bạn có trực tiếp tham gia trong việc phục vụ người nghèo khổ và bé mọn không? Bạn có biết cách để nhìn thấy khuôn mặt của Đức Kitô đang trông chờ được phục vụ, yêu thương trong những người nghèo khó không?
3. Cầu Nguyện – Oratio
a) Thánh Vịnh 116 (114-115): 12-13; 15-16; 17-18
Tác giả Thánh Vịnh đã tìm thấy chính mình trong thời gian và trong sự hiện diện của cộng đoàn phụng vụ hát lên lời tạ ơn hy lễ của mình. Voltaire là người có một thị hiếu đặc biệt cho câu 12 đã phát biểu như sau: “Tôi có thể dâng lên Chúa được những gì để cho xứng với tất cả mọi ân sủng mà Người đã dành cho tôi?”
Con lấy gì dâng lại cho Chúa
để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho con?
Con sẽ lãnh chén cứu độ,
và con sẽ kêu cầu danh Chúa.
Trước mặt Chúa thật là quý hóa
cái chết của những bậc thánh nhân Ngài.
Con nài van Chúa, lạy Chúa!
Con là tôi tớ Ngài,
Con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tì Ngài;
Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con.
Con sẽ hiến dâng lời ca ngợi làm hy lễ,
và con sẽ kêu cầu danh Chúa.
Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa,
trước mắt toàn thể dân Ngài.
b) Lời nguyện kết
Bị mê hoặc với cách mà Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người với những kẻ thuộc về mình, lời cầu nguyện khởi nguyên như sau:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến, chân con đang bẩn.
Xin hãy trở thành một người hầu của con, hãy đổ nước vào chậu;
Xin hãy đến, rửa chân cho con.
Con biết chứ, những gì con đang nói đây thì thật là táo bạo,
nhưng con sợ sự răn đe từ những lời của Chúa:
“Nếu Thầy không rửa chân cho con,
con sẽ không được dự phần với Thầy.”
Vậy thì Chúa hãy rửa chân con đi,
để con có thể được dự phần cùng Chúa.
(Bài giảng 5 về Isaia)
Và thánh Ambrose có một mong muốn mãnh liệt để được tương xứng với tình yêu của Chúa Giêsu, đã thố lộ như sau:
Ôi, lạy Chúa Giêsu của con,
xin hãy để cho con rửa đôi chân thiêng liêng của Chúa;
chân Chúa đã lấm bẩn khi Ngài bước vào tâm hồn con…
Nhưng con sẽ phải lấy nước từ giếng nước nào
để rửa chân cho Chúa đây?
Trong sự thiếu thốn đó
con chỉ có đôi mắt để khóc:
rửa chân Chúa bằng nước mắt của con,
chỉ có làm như thế thì bản thân con mới có thể trở nên tinh sạch.
(Luận về việc đền tội)